Bức tranh xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trong 4 tháng đầu năm được đánh giá có những diễn biến trái ngược khi có những mặt hàng tăng trưởng ấn tượng nhưng ngược lại nhiều mặt hàng còn gặp khó khăn.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 4/2023 ước đạt 4,54 tỷ USD, giảm 8,3% so với cùng kỳ năm 2022; giảm 1,2 triệu USD so với tháng 3/2023 (4,66 tỷ USD). Lũy kế 4 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 15,66 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
![]() |
| Kim ngạch xuất khẩu nông,lâm, thủy sản 4 tháng qua các năm. Nguồn: Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn |
Ngoài các nhóm hàng nông sản và chăn nuôi tăng (nông sản đạt 2,33 tỷ USD, tăng 24%; chăn nuôi đạt 41 triệu USD, tăng 46,7%); còn lại, các mặt hàng thủy sản, lâm sản đều giảm (thủy sản đạt 800 triệu USD, giảm 28,6%; lâm sản đạt 1,2 tỷ USD, giảm 29,8%).
Một số mặt hàng nông sản có giá trị xuất khẩu cao hơn cùng kỳ năm ngoái, như: Cà phê đạt 1,7 tỷ USD, tăng 2,5%; rau quả đạt 1,39 tỷ USD, tăng 19,4%; hạt điều đạt 942 triệu USD, tăng 3,4%;...
Đáng chú ý, xuất khẩu gạo đạt 1,56 tỷ USD, tăng 54,5% - mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhất trong số các mặt hàng nông sản.
![]() |
| Ảnh minh họa - Ảnh: internet. |
Theo số liệu thống kê của cơ quan hải quan, trong năm 2022, kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 7,1 triệu tấn với trị giá 3,46 tỷ USD, tăng 13,8% về lượng và tăng 5,1% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2021. Giá xuất khẩu bình quân đạt 486,2 USD/tấn, giảm 7,7% so với mức bình quân năm 2021.
Đáng chú ý, xuất khẩu gạo trong năm 2022 ghi nhận tăng trưởng ở tất cả các thị trường. Trong đó, các thị trường tiêu thụ truyền thống và trọng điểm vẫn tiếp tục giữ vững như Philippines, Trung Quốc, khu vực Châu Phi, Cuba. Châu Á tiếp tục là thị trường khu vực xuất khẩu lớn nhất trong năm 2022, đạt 4,96 triệu tấn, chiếm gần 71% trong tổng lượng xuất khẩu, tăng 15,5% so với năm 2021. Châu Phi là thị trường khu vực xuất khẩu lớn thứ 2, đạt gần 1,2 triệu tấn, chiếm 17,8% tổng lượng xuất khẩu, tăng nhẹ 0,2% so với năm 2021.
Nhiều mặt hàng có giá trị xuất khẩu giảm, như: Cao su đạt 684,8 triệu USD, giảm 20,1%; chè đạt 50 triệu USD, giảm 5,8%; hồ tiêu đạt 325 triệu USD, giảm 10,2%; sắn và sản phẩm sắn đạt 453 triệu USD, giảm 12,1%; gỗ và sản phẩm gỗ 3,91 tỷ USD, giảm 30,4%; mây, tre, cói thảm 245 triệu USD, giảm 29,2% và cá tra đạt 558 triệu USD, giảm 39,9%; tôm đạt 843 triệu USD, giảm 39,6%.
Về thị trường xuất khẩu, 4 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản tiếp tục duy trì là 3 thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất. Theo đó, giá trị xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng 20,9%, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm ngoái; Hoa Kỳ chiếm 18,9%, giảm 40,5% và Nhật Bản chiếm 8,1%, tăng 0,8%./.

