Tăng huyết áp dễ biến chứng tiền sản giật ở thai phụ.
Ảnh hưởng nghiêm trọng tới bé và hệ tim mạch
PGS.TS Nguyễn Quang Tuấn, Giám đốc bệnh viện Tim Hà Nội cho biết, tăng huyết áp (THA) là bệnh lý thường gặp nhất ở phụ nữ mang thai và cũng là nguyên nhân chính gây ra các biến chứng, thậm chí cả tử vong cho mẹ và thai nhi.
Có tới 15% phụ nữ mang thai THA và 25% trường hợp đẻ non là do THA. THA gặp trong nhiều tình huống khác nhau, trong đó tiền sản giật là biến chứng nguy hiểm nhất.
Theo PGS.TS Tuấn, được coi là THA thai nghén khi trị số huyết áp đo được ở mức 140/90mmHg trở lên hoặc huyết áp tâm thu tăng trên 30mmHg hoặc huyết áp tâm trương tăng trên 15mmHg so với mức huyết áp đo được ở thời điểm trước khi mang thai. Hơn nữa, THA thai kỳ được chia làm hai loại:
THA vô căn: chiếm 3 – 5% số lần mang thai của phụ nữ và có xu hướng ngày càng gia tăng do phụ nữ ngày nay thường sinh con muộn (từ 30 – 40 tuổi). Nếu những phụ nữ này được kiểm soát HA tốt thì quá trình mang thai vẫn có thể diễn ra bình thường.
Tuy nhiên, nếu THA vô căn nặng (huyết áp tâm trương trên 110mmHg) trước tuần thứ 20 của thai kỳ nguy cơ tiền sản giật tăng lên đến 46% và cũng làm tăng nguy cơ cho cả mẹ và thai nhi.
THA thai nghén: khi THA xảy ra vào nửa sau của thai kỳ ở các phụ nữ có số đo huyết áp trước lúc mang thai hoàn toàn bình thường, không kèm theo protein niệu nhiều (trên 0,3g/24h) và các dấu hiệu của tiền sản giật.
THA thai nghén chiếm 6 – 7 % số lần mang thai của phụ nữ và khỏi hoàn toàn khi hết thời kỳ hậu sản. Nguy cơ tiền sản giật là 15 – 26%. Nếu THA xuất hiện vào tuần thứ 36 của thai kỳ thì nguy cơ chỉ còn 10%.
PGS.TS Nguyễn Quang Tuấn nhấn mạnh, tiền sản giật thường xảy ra từ tuần thứ 20 của thời kỳ thai nghén và gây tổn thương ở nhiều cơ quan khác nhau.
Trước đây, người ta chẩn đoán tiền sản giật dựa vào chứng: THA, phù và protein niệu nhưng quan niệm hiện đại cho rằng, chỉ cần có THA thai nghén kèm protein niệu nhiều là đủ để chẩn đoán tiền sản giật.
Nguy cơ của thai nhi là chậm phát triển trong buồng tử cung và bị đẻ non. Đặc biệt nghiêm trọng là để lại hậu quả lâu dài trên hệ tim mạch.
Kiểm soát tốt THA để mang thai và sinh nở bình thường
Những người bị THA ở lần mang thai đầu, có nguy cơ THA ở lần mang thai sau. Họ còn có nguy cơ bị THA và đột quỵ cao sau này.
Những người bị tiền sản giật hoặc chậm phát triển bào thai trong buồng tử cung sẽ tăng nguy cơ bệnh và nguy cơ tử vong do bệnh tim thiếu máu cục bộ.
Tuy nhiên, điều thú vị là những phụ nữ trải qua sinh đẻ không bị THA sẽ ít có nguy cơ mắc bệnh tim mạch hơn những người không sinh đẻ.
Việc sinh đẻ cũng khiến phụ nữ giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch về sau.
PGS.TS Tuấn khuyên, để an toàn cho cả mẹ và con, những phụ nữ bị THA trước khi mang thai cần đánh giá kỹ lưỡng để loại trừ những nguyên nhân gây THA thứ phát như bệnh lý thận, nội tiết.
Đánh giá hiệu quả điều trị THA và chỉnh liều thuốc để đạt hiệu quả hạ áp tối ưu, tư vấn nguy cơ tiền sản giật và thay đổi thuốc để mang thai an toàn.
Phần lớn những phụ nữ bị THA đều có thể mang thai và sinh nở bình thường nếu họ được kiểm soát huyết áp tốt và được theo dõi chặt chẽ.
Thúy Nga