15 vị thuốc trị nhiều chứng đau
Phương dược: Nguồn gốc bài thuốc “độc hoạt ký sinh thang” của Tôn Tư Mạo được ghi trong quyển 8 sách “Bị cấp thiên kim yếu phương”, gọi tắt là “Thiên kim”. Sau đó có nhiều sách cũng ghi lại bài thuốc này với công dụng chữa trị và cách lý giải bài thuốc khác nhau.
Phương thuốc gồm 15 vị: độc hoạt 3 lạng, tang ký sinh, đỗ trọng, ngưu tất, tế tân, tần giao, phục linh, quế tâm, phòng phong, xuyên khung, nhân sâm, cam thảo, đương quy, bạch thược, can địa hoàng mỗi thứ 2 lạng, sắc uống ngày một thang. Gia giảm: người vốn hư nhược, đại tiện lỏng, bỏ can địa hoàng.
Công dụng: Theo sách “Thiên kim”: lưng đau do thận khí hư nhược, nằm ở chỗ lạnh và ẩm thấp, ra gió bị cảm nhiễm, không điều trị kịp thời, tà truyền vào chân và đầu gối, làm cho tê lạnh liệt nửa người, người yếu dần và đau nặng lên, lưng đau, chân co, tê nặng…
“Phương tễ học”: trừ phong thấp, chỉ Tý thống (tê đau), ích can thận, bổ khí huyết. Chủ trị: chứng tý kéo dài lâu ngày, can và thận đều hư tổn, khí huyết bất túc, lưng, đầu gối đau nhức, chân tay co duỗi khó khắn, hoặc tê dại, sợ lạnh, thích ấm, hồi hộp, hụt hơi, lưỡi nhạt, rêu trắng, mạch tượng tế nhược.
Bởi lưng đau do thận khí hư nhược, nằm ở chỗ lạnh và ẩm thấp, ra gió bị cảm nhiễm, không điều trị kịp thời, tà truyền vào chân và đầu gối, làm cho tê lạnh nửa người, người yếu dần và đau nặng lên, lưng đau, chân co, tê nặng…
Ngoài ra, theo “Bảo anh toát yếu”: bị hạc tất phong, khí huyết hư nhược, tứ chi, cổ gáy sưng đau có chỗ vỡ ra lâu ngày không thu miệng được; “Ngoại khoa ký lệ”: Khí phong thấp lan truyền, có độc bắt đầu từ tay chân, đau khắp người, cổ gáy kết hạch như chuỗi hạt; “Y phương tập giải”: can thận hư nhiệt, phong thấp nội công, lưng đầu gối đau, tê lạnh yếu ớt, co duỗi khó khăn.
TTND.LY Giỏi Trần Văn Quảng
Bồi bổ can, thận, khí, huyết hết đau
Theo bình luận về bài thuốc mà các y phương ghi lại thì các vị thuốc trong bài, mỗi sách lại có những diễn giải cách chữa độc đáo khác nhau:
“Y Phương tập giải”: Đây là bài thuốc thuộc kinh Túc thiếu dương, Quyết âm: Độc hoạt, tế tân vào thiếu âm thông huyết mạch. Tần giao, phòng phong sơ thông kinh lạc, thăng dương để trừ phong. Tang ký sinh ích khí huyết, trừ phong thấp. Đỗ Trọng, ngưu tất xường cân cốt mà vững phần hạ tiêu. Xuyên khung, đương quy, bạch thược thì hoạt huyết mà bổ âm. Nhân sâm, quế tâm hoặc nhục quế, phục linh, cam thảo ích khí mà bổ dương. Nhưng tân ôn là để tán, cam ôn là để bổ làm cho khí huyết được đầy đủ mà phong thấp bị tiêu trừ. Như vậy thì Can Thận sẽ mạnh lên, chứng Tý thống cũng khỏi.
“Thiên kim diễn giải”: Tính của phong tà đi lên, khi gặp thấp khí thì đọng trệ lại, ở phía dưới, rồi gây ra đau lưng, chân tê đau nặng nếu không có độc hoạt, ký sinh thì không chữa được. Có tế tân, phòng phong, tần giao, độc hoạt hỗ trợ. Có ngưu tất, đỗ trọng, tang ký sinh tiếp sức. Có quế tâm, phục linh, nhân sâm, cảm thảo để bổ khí. Xuyên khung, bạch thược, thục địa tư dưỡng huyết. Huyết khí vượng thì chứng tý được khai thông.
“Thành phương tiệt độc”: Thục địa, ngô tất, đỗ trọng, ký sinh bổ can, ích thận, làm mạnh gân cốt. Đương quy, bạch thược xuyên khung hòa dinh dưỡng huyết. Cho nên trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt – chữa phong trước hết phải chữa huyết, huyết lưu thông thì phong tự diệt trừ. Nhân sâm, phục linh, cam thảo, ích khí, phù tý – có nghĩa là trừ tà khí trước hết phải bổ chính khí, chính khí vượng thì tà khí tự tiêu trừ.
Song nguyên nhân của bệnh trước hết là do can thận hư nhược, trà khí nhân đó mà đi sâu vào cho nên dùng độc hoạt, tế tân đi vào kinh thận, tìm quét phong tà ẩn phục ở đó phải đi ra ngoài. Quế tâm có thể đi vào phần huyết ở can thận mà trừ hàn. Tần giao, phòng phong là quân lính của thuốc đi khắp cơ biểu vì phong năng thắng thấp….
TTND. LY Giỏi Trần Văn Quảng (Hội Đông Y Việt Nam)