Tràn dưỡng chấp màng phổi cần phải theo dõi sát (ảnh minh họa).
Tử vong do rò dưỡng chấp kéo dài
Tràn dưỡng chấp màng phổi là sự hiện diện của dưỡng chấp trong khoang màng phổi, xảy ra sau tổn thương hoặc tắc nghẽn ống ngực. Tổn thương do thầy thuốc gây ra, đặc biệt là trong phẫu thuật tim lồng ngực.
Tràn dưỡn chấp màng phổi là một biến gặp trong < 1% thủ thuật tim ngực, nhưng chiếm gần 50% trường hợp, số còn lại là do bệnh ác tính. Với chẩn đoán sớm và điều trị nhanh chóng, tỷ lệ tử vong theo bệnh là 10%.
Ban đầu dịch chảy ra từ ống ngực vẫn ở bên trong trung thất, chỉ thấy dấu hiệu trung thất giãn rộng hơn trên phim chụp X-quang ngực. Khi thông màng phổi – trung thất, dịch bạch huyết nhanh chóng tích tụ trong khoang màng phổi.
Khi dưỡng chấp tích tụ trong khoang màng phổi hoặc ở ngoài màng tim, biểu hiện các dấu hiệu của tràn dịch màng phổi lớn (khó thở, ho, giảm oxy huyết) hoặc tràn dịch ngoài màng tim (nhịp tim nhanh, hội chứng chèn ép tim).
Các triệu chứng thường khởi phát từ từ, nhưng cũng có thể được diễn biến nhanh khi tràn dưỡng chấp màng phổi nhiều. Dẫn lưu dịch màng phổi rất cần thiết để làm giảm triệu chứng. Dẫn lưu dịch có thể làm cơ thể mất dịch, mất nguồn dự trữ dinh dưỡng, chất điện giản và tế bào lympho. Lượng bạch huyết có thể lên đến 2,5l/ngày và những trường hợp sau phẫu thuật mất 1l/ngày. Nếu lỗ rò tiếp diễn > 1 tuần, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ can thiệp phẫu thuật tăng lên.
Điều trị tràn dưỡng chấp màng phổi tự phát không phẫu thuật có thể được đặt ra trong < 50% số bệnh nhân và tử vong thường xảy ra ở bệnh nhân rò dưỡng chấp kéo dài mà không được phẫu thuật đóng lỗ rò. Dò dưỡng chấp không kiểm soát được thường gây tử vong dù hỗ trợ dinh dưỡng và dịch đầy đủ.
Các nguyên nhân gây bệnh
Có nhiều nguyên nhân gây tràn dưỡng chấp màng phổi nhưng được chia thành 4 nhóm:
Bẩm sinh: Tràn dưỡng chấp màng phổi là nguyên nhân thường gặp nhất của tràn dịch màng phổi ở trẻ sơ sinh. Nó biểu hiện khi sinh hoặc trong những tuần đầu tiên của trẻ như suy hô hấp. Hầu hết các trường hợp đều tự phát.
Tràn dưỡng chấp màng phổi do bất thường giải phẫu bạch huyết. Ống ngực có thể không có hoặc tịt hoặc nó có thể có nhiều thân bạch huyết giãn với nguồn thông bất thường vào khoang màng phổi. Chấn thương khi sinh bao gồm cả duỗi quá mức của cổ và tăng áp lực trong tĩnh mạch chủ trên, có thể là nguyên nhân thuận lợi.
Chấn thương: Xảy ra trong 25% trường hợp, trong đó phẫu thuật chiếm 20%. Tổn thương ống ngực có thể xảy ra trong tất cả các can thiệp vùng lân cận ống ngực như phẫu thuật thực quản, sửa chữa hẹp động mạch chủ, thắt ống động mạch, cắt phổi trái, cắt các khối u trung thất sau và giao cảm.
Tràn dưỡng chấp màng phổi đôi khi xảy ra sau đặt cannula tĩnh mạch trung tâm có thể là do tắc tĩnh mạch. Ngoài ra, do chấn thương gãy cột sống, vết thương dao đâm vùng ngực…
Ung thư: Do khối xâm lấn, đè ép ống ngực do bệnh lý ác tính có thể dẫn đến vỡ, phình giãn ống ngực, kết quả tràn dưỡng chấp màng phổi đặc biệt bệnh u lympho, u bạch mạch, ung thư phổi, sarcoma sau phúc mạc, những bệnh di căn từ tất cả các cơ quan. Tràn dưỡng chấp màng phổi cũng có thể do xạ trị trung thất.
Nguyên nhân khác: Nhiễm trùng, giun chỉ, nang giả tụy, huyết khối tĩnh mạch dưới đón và tĩnh mạch cảnh, xơ gan và bệnh lao có thể gây tràn dưỡng chấp màng phổi. U lympho lành tính phát sinh trong ống ngực cũng có thể tạo ra u nang giống như một hoặc nhiều bể dưỡng chấp. Tràn dưỡng chấp màng phổi được thấy trong 20% các trường hợp do sự xâm nhập hệ thống bạch huyết của tế bào cơ trơn.
GS.TS Lê Ngọc Thành
(Giám đốc Bệnh viện E)