Trong những năm gần đây, xu hướng kiểm soát huyết áp chặt hơn, với mục tiêu phải < 140/90 mmHg nhưng còn tranh cãi là thấp đến mức nào là tối ưu
Một nghiên cứu mới công bố trên Tạp chí JCEM tháng 1/2024, dựa trên dữ liệu bảo hiểm y tế của 326.593 bệnh nhân đái tháo đường typ 2 ≥ 40 tuổi ở Hàn Quốc, trong thời gian từ tháng 1/2007 - 12/2007.
Các bệnh nhân được chia vào 7 nhóm huyết áp (HA) tâm thu (< 110, 110-119, 120-129, 130-139, 140-149, 150-159, 160-169 và ≥ 170 mmHg) và huyết áp tâm trương (< 65, 65-69, 70-74, 75-79, 80-84, 85-89 và ≥ 90 mmHg). Họ phân tích nguy cơ bị các biến cố tim mạch – thận và tử vong do mọi nguyên nhân theo các nhóm huyết áp trên sau 10 năm theo dõi.
Ảnh: Liên quan giữa huyết áp với nguy cơ bị các biến cố tim mạch chính (MACE) |
Kết quả:
• Nhóm bệnh nhân có huyết áp tâm thu 120-129 mmHg và huyết áp tâm trương 75-79 mmHg có nguy cơ bị tử vong do mọi nguyên nhân thấp nhất
• Các nhóm bệnh nhân với huyết áp tâm thu ≥130 mmHg và huyết áp tâm trương ≥ 80 mmHg có tăng nguy cơ bị các biến cố chính về tim mạch (MACE) so với nhóm bệnh nhân có huyết áp tâm thu 120-129 mmHg và huyết áp tâm trương 75-79 mmHg.
• Huyết áp tâm thu càng thấp thì nguy cơ bị biến cố thận càng thấp (ngược với các biến cố chính về tim mạch - MACE).
• Cả các nhóm có huyết áp thấp hơn (huyết áp tâm thu/ huyết áp tâm trương <120/70 mm) và huyết áp cao hơn (huyết áp tâm thu/ huyết áp tâm trương ≥130/80 mmHg) đều có liên quan với tăng nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân.
Kết luận: Ở các bệnh nhân đái tháo đường typ 2, ngưỡng huyết áp tối ưu có liên quan với giảm tỷ lệ bị các biến cố tim mạch, giảm tử vong có lẽ là 120-129/75 – 79 mmHg. Những bệnh nhân có nguy cơ cao bị biến chứng thận có thể cần đạt mức huyết áp thấp hơn.