Ở nước ta có nhiều loại khoai lang như loại trắng ruột, loại vỏ đỏ ruột tím, loại vỏ đỏ ruột vàng và thường được dùng ăn luộc, nướng, nấu lẩu, hầm xương thịt, chiên bột, làm mứt, phơi khô, làm bánh, nấu chè. Lá ngọn khoai làm rau thường ăn luộc, xào chấm mắm tỏi. Củ và lá khoai đều có vị ngọt tính bình, không độc, tác dụng bổ tỳ, ích thận, nhuận tràng, tiêu viêm, lợi gan mật, sáng mắt. Khoai lang dùng để trị táo bón, trĩ, tiêu khát, nhức mỏi cơ khớp, trẻ em cam tích.
Về giá trị dinh dưỡng trong 100g củ khoai tươi nói chung cho 109 calo, trong đó chứa 24,6% tinh bột, 4,17% glucoza. Khi còn tươi chứa 1,3% protein, 0,1% chất béo, các diattaza, các khoáng chất Mn, Ca, Cu, các vitamin A, B, C, 4,24% tanin, 1,375 pentozan. Trong 100g lá khoai lang cho 29 calo, 64mg canxi, 33mg Ma giê, 32mg sắt, 0,72 mangan, 15mg vitamin C. Nhân dân ta hay dùng khoai lang chữa táo bón cho trẻ vì khoai lang chứa nhiều chất xơ, là chất có vai trò điều hòa nhu động ruột, chất xơ còn giúp đưa nhanh chất thải ra khỏi đường tiêu hóa. Trẻ còi cọc, chậm phát triển có thể ăn lá khoai lang vì đây là loại rau chứa nhiều canxi, giúp bổ sung canxi cho cơ thể. Các tài liệu mới đây còn cho biết, trong củ, lá khoai lang đều có chứa chất phytosterol adenin, betain cholin giúp cơ thể biến dưỡng chất béo chống tích tụ mỡ trong tim mạch, gan. Những người mập thừa cân, có nguy cơ tim mạch huyết áp nên ăn khoai lang.
+ Chữa trĩ, đi cầu táo bón: Lấy 1 củ khoai lang to có vỏ đỏ, ruột vàng, bổ đôi củ khoai cho 2 - 3 củ hành vào kẹp lại, bọc lá chuối nướng cho chín sau đó ăn cả khoai và hành, ngày ăn 2 - 3 củ, ăn nhiều ngày.
+ Chữa trẻ em cam tích: Lá khoai lang non 100g, kê nội kim 10g (màng mề gà) sắc nước uống.
+ Chữa mắt kém (đối với trẻ cận thị): Ngọn lá non khoai lang xào với gan lợn, cho thêm gia vị vừa đủ, ăn tuần vài lần.
Lương y Nguyễn Minh (Ban Chấp hành Hội Dược liệu Việt Nam)