Hoa mào gà còn gọi là kê quan hoa, kê đầu, kê quan. Mào gà là cây thảo sống dai, cao tới 60-90cm, có thân thẳng đứng và phân nhánh, nhẵn. Lá có phiến hình trái xoan hay trái xoan ngọn giáo, có khi hình ngọn giáo nhọn, nhẵn.
Hoa đỏ, vàng và trắng, có cuống rất ngắn, thành bông hầu như không cuống hình trái xoan - tháp, thành khối dày, có khi thành ngù tua. Quả hình trái xoan, gần như hình cầu, chứa 1-9 hạt đen, bóng. Hoa tháng 7-9, quả tháng 9-11. Bộ phận dùng làm thuốc thường là cụm hoa, hạt và lá. Thu hái cụm hoa và hạt vào mùa thu, khi hoa đang nở, đem phơi khô.
Thành phần hoá học: Cây chứa betanin, một chất có nitrogen chứa anthocyanin. Hạt chứa dầu béo. Theo Đông y, cụm hoa mào gà (kê quan hoa) có vị ngọt, tính mát, có tác dụng tiêu viêm, cầm máu. Hạt làm nhầy dịu. Thường dùng hạt và hoa sắc uống để cầm máu trong các trường hợp lỵ ra máu, trĩ ra máu, thổ huyết, băng huyết, đái ra máu, rong kinh. Nước sắc hoa và hạt dùng rửa mắt đau. Hoa và lá còn dùng chữa sốt của trẻ em. Hạt nhai nuốt nước, lấy bã đắp trị rắn cắn. Kê quan hoa còn dùng trị lỵ, xích bạch đới và viêm đường tiết niệu. Ở Ấn Ðộ hạt dùng đắp mụn nhọt mưng mủ, trị ho và lỵ. Ngày dùng 10 -15g dạng thuốc sắc.
Chảy máu cam, ho ra máu, nôn ra máu: Mào gà, thiến thảo, cỏ nhọ nồi (cỏ mực) mỗi vị 15g, sắc uống.
Trĩ ra máu, xuất huyết tử cung: Bông mào gà phơi khô, tán bột, mỗi lần uống 5g với nước trà.
Viêm đường tiết niệu: Mào gà, biển súc, mỗi vị 15g, thài lài 30g, sắc nước uống.
Lỵ bạch đới: Mào gà, lát khét (rễ) mỗi vị 15g sắc uống.
BS Nguyễn Văn Quang (Hội Nam y Việt Nam)