Một ngày trung tuần giữa tháng 12, men theo bờ đê vắt vẻo dọc con kênh nhỏ, chúng tôi tìm về ấp Hậu Thành, xã Hòa Thành, huyện Lai Vung (Đồng Tháp) tìm gặp Đại tá phi công Nguyễn Văn Bảy (82 tuổi), người anh hùng từng bắn rơi 7 chiếc máy bay của Mỹ.
Người anh hùng phi công năm ấy giờ quanh năm sống vui giữa miệt vườn với đầm sen, ao cá.
Gọi cửa, dạo một vòng xung quanh ngôi nhà nhỏ giống hệt một lán trại nhưng không có ai trả lời, chúng tôi đi sâu vào sau vườn, bóng dáng một cụ ông rắn rỏi ngụp lặn dưới ao cá làm chúng tôi bất ngờ. Thấy có người lạ, cụ ông ngoi đầu lên mặt nước và nói vọng: “Có chuyện đấy, mà có gì thì nói to lên đi, chớ tai tôi lãng lắm rồi, không nghe được đâu”.
Biết vấn đề chúng tôi đang tìm hiểu, cụ Bảy chân chất nói: “Vậy giờ để tôi lên trên nói chuyện hay nói dưới này luôn, chứ mới lội xuống để gỡ lưới, chưa gỡ được mà phải lội lên lại mất công lắm”.
Thế rồi, vừa gỡ lưới dưới ao cá, cụ vừa chậm rãi kể lại chuyện đời mình.
Chưa biết đi xe đạp đã học lái máy bay
Cụ là một trong 16 phi công Việt Nam đạt đẳng cấp ACES, một danh hiệu có từ chiến tranh thế giới thứ hai, dành cho những phi công lái máy bay quân sự có số lần bắn hạ máy bay đối phương đạt con số từ 5 trở lên.
Năm 17 tuổi, cụ bị ba mẹ ép cưới vợ. Nhưng vì không muốn lập gia đình sớm, cụ trốn ba mẹ tham gia cách mạng. Đến năm 1960, cụ là một trong số rất ít người được chuyển từ sư đoàn bộ binh sang không quân, rồi được chọn đi học lái máy bay.
“Cái hồi được tuyển tôi cao 1m67, nặng chưa đầy 70kg. Gia đình nông dân nghèo rách khố nên nằm mơ tôi cũng không dám nghĩ là mình được đi học lái máy bay. Hồi ấy, để được học lái máy bay, ít nhất cũng phải xong lớp 10/10 (tương đương lớp 12 hiện nay), trong khi tôi mới học tới lớp 3.
Vì vậy, đúng vỏn vẹn một tuần học văn hóa theo phương châm “cần gì học đó”, tôi hoàn thành 7 lớp học còn lại. Khi thi qua phần lý thuyết cơ bản lái máy bay trong nước, tôi được điều sang Trường Hàng không Số 3, nơi đào tạo lái máy bay tốt nhất nhì của Trung Quốc bấy giờ để học lái. Thời điểm đó, đoàn học viên của Việt Nam được đào tạo lái máy bay MiG17 chỉ có 34 người, ấy vậy mà tôi được lọt vô”, tay kéo lưới cụ Bảy cười khà khà khi kể lại những ngày tháng học lái đầu tiên.
Nói về cách hạ máy bay địch, cụ Bảy như sống lại phút giây hào hùng. Giọng mạnh mẽ, cụ nhớ lại: “Cái năm 1965, người Mỹ bị chấn động khi những chiếc MiG17 đời cũ của không quân Việt Nam bay chậm hơn nhưng lại bắn hạ được máy bay tiêm kích, ném bom F105 tốc độ cao của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam. Hồi đấy máy bay tiêm kích, ném bom tầm xa siêu lắm, có thể hoạt động trong mọi thời tiết, ai cũng sợ. Thế mà họ vừa đưa vào chiến đấu tại Việt Nam thì ngay lập tức trở thành nạn nhân của MiG17. Hồi đó tôi bắn rơi mấy cái.
Máy bay Mỹ toàn loại siêu đẳng, nên muốn đánh thắng chúng thì ta phải có cách riêng của mình. Lần đầu tiên tôi cất cánh tấn công máy bay Mỹ là 10h ngày 19/6/1965, do chưa có kinh nghiệm mà lúc đó máy bay Mỹ lại đông thế là bị chúng áp đảo và bắn máy bay tôi bị thương. Thế mà tôi vẫn lái máy bay hạ cánh an toàn đấy, vụ đó các chuyên gia quân sự Liên Xô và đồng đội nể phục tôi lắm”.
Sau đó, rút kinh nghiệm từ đợt đánh đầu tiên, cụ Bảy đã áp dụng cách đánh mới.
“Biết chiêu của địch rồi nên mình phải dùng chiêu đối phó, đó là phải áp sát máy bay địch mà đánh. Vì máy bay của chúng to hiện đại hơn, bay nhanh và trang bị súng đạn nhiều hơn, trong khi MiG17 của mình chỉ có 3 khẩu pháo với 200 viên đạn. Bởi vậy phải tiếp cận gần và mạo hiểm thì mới thắng được, thế là mỗi lần tôi siết cò là một máy bay Mỹ ra đi”, cụ Bảy còn nhớ như in những ngày tháng chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
Cụ Bảy cho biết, đến bây giờ cụ vẫn còn cảm giác hồi hộp khi được lái máy bay.
“Từ nhỏ tới lớn tôi toàn chăn bò, rồi cưỡi bò đua với mấy đứa bằng tuổi trong làng, tôi toàn thắng không à. Cái hồi đấy nhà nghèo nứt vách, cứ thấy xe hơi chạy trên đường là nguyên đám con nít chạy theo, hít khói khen thơm quá. Lúc đó, cả đám chỉ ước gì trong cuộc đời được một lần ngồi xe hơi. Rồi cái lúc xe đạp còn chưa biết đi, bỗng nhiên lại được đưa đi nước ngoài học lái máy bay, sướng lắm”, cụ hào hứng kể khi đang bổ quả mít mới hái ngoài vườn mời chúng tôi thưởng thức.
Bỏ dở đám cưới, chú rể tức tốc lên máy bay chiến đấu
Nói về lý do trở thành lão nông thứ thiệt, cụ kể mình bắt đầu nghỉ hưu năm 1990 và được đơn vị cấp đất ở tại TP.HCM, tuy nhiên sống một thời gian cụ cảm thấy bí bách không hợp nên quyết định về thị trấn Lai Vung đào ao nuôi cá. Một thời gian vùng đất này cũng bị đô thị hóa nên cụ Bảy giao nhà cho con gái và cùng vợ về nơi chôn nhau cắt rốn ở ấp Hậu Thành dựng cái chòi bên bờ ao nuôi cá, trồng lúa, chăn heo.
Nông trại nhỏ của vợ chồng cụ luôn tươi tốt, cá béo, lúa thì trĩu bông. Cụ cũng không quên kể về thím Bảy (vợ của cụ, tên thật là Trần Thị Niên) cũng là người Lai Vung và câu chuyện cưới hỏi đặc biệt của hai người.
“Hồi đó bà ấy là học sinh miền Nam, còn tôi học phi công ở sân bay Cát Bi – Hải Phòng. Lúc đó đến tuổi lấy vợ, mà tôi thì thích lấy vợ cùng quê, trong khi học ngoài Bắc thì toàn gái Bắc. Thế là tôi đi tìm danh sách học sinh vùng đó, vậy là thấy có bà ấy cùng quê, và rồi bắt đầu gặp rồi nói yêu và xin cưới. Lúc đang tổ chức đám cưới (tháng 4/1966) mới 45 phút thì có báo động, tôi phải tức tốc lên máy bay đi chiến đấu thế là bỏ bà ấy mặc nguyên đồ cưới làm lễ một mình”.
Vừa kể cụ vừa nhanh nhẹn vào bếp và chuẩn bị bữa trưa, khăng khăng mời những vị khách lạ thưởng thức tài nấu nướng của mình: “Nhà tôi thì có gì ăn nấy, cá bắt dưới áo, rau hái ngoài vườn. Còn về độ ngon thì khỏi bàn, hồi chiến đấu, tôi còn nấu cho cả 200 quân ăn mà, nấu cho cả nhà hàng nữa đó”.
Mỗi ngày của cụ cứ thế tuần hoàn, sáng dậy sớm cho gà, cho cá ăn, rồi lại lội ao gỡ lưới, chèo thuyền hái sen… và thoắt cái lại đến trưa. Ăn uống xong, nghỉ xem phim đến đầu giờ chiều, cụ lại tiếp tục công việc như buổi sáng.
“Nhiều người thấy tôi suốt ngày lặn ngụp dưới ao, bắt cá rồi hái sen, họ tưởng Nhà nước không đãi ngộ gì tôi rồi thương tôi. Nhưng đâu có đâu, Nhà nước vẫn trả lương cho tôi đầy đủ, đi họp hay đâu đó vẫn cho xe tới tận đây rước tôi.
Tại là tôi không quen và không thích sống ở thành thị, suốt ngày ngồi trong nhà cà phê, đọc báo, có vậy thôi thì chán lắm, không lao động lại nhanh chết nữa. Tôi sống như thế này là vì thích, à không phải, cũng có cái không thích là tai dạo nãy lãng rồi, ai nói gì cứ chữ được chữ mất, xem phim phải sắp cái tai nghe riêng đây”, chỉ vào cái tai nghe được “chế” dài 2 mét cụ Bảy cười hiền.
Cựu phi công lão luyện thủ thỉ thêm, hiện tại vợ cụ đang bị ốm và phải nhập viện ở Sài Gòn, các con của cụ ở Sài Gòn chăm lo nên vài ngày mới phải lên thăm. Cụ ở nhà vẫn túc tắc nấu ăn một mình, cho cá, cho gà ăn, thỉnh thoảng lại gọi điện lên hỏi thăm vợ.
Đối với cụ Bảy, cuộc sống hạnh phúc và viên mãn nhất là được cùng người vợ đầu ấp tay gối nhìn nhau già đi, được làm những gì mình thích, con cái lớn không không phải lo nghĩ gì. Thỉnh thoảng vợ vắng nhà, ông lại gọi vài ông bạn hàng xóm qua nhà lai rai vài ly rượu thuốc cho đời thêm vui.
Nguyễn Văn Bảy tên thật là Nguyễn Văn Hoa là con thứ bảy trong gia đình. Do người Nam Bộ hay gọi theo thứ tự nên dần cái tên Nguyễn Văn Bảy thành tên chính. Ông sinh tại huyện Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp).
Khoảng năm 1953, do không chịu lấy vợ theo ý gia đình, ông bỏ trốn theo bộ đội, trở thành du kích khi 17 tuổi. Năm 1954, ông tại ngũ trong đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam tập kết ra miền Bắc.
Năm 1960, ông được chuyển binh chủng từ bộ binh sang không quân, theo học lớp lái máy bay phản lực ở Liên Xô. Trước đó, do học chưa hết lớp 3, ông phải học ở Trường bổ túc văn hóa Lạng Sơn và được phổ cập một lèo từ lớp 4 lên lớp 10. Ban đầu ông học lái máy bay Yak-52, sau đó chuyển dần lên Mig15, Mig17. Tháng 4/1965, lớp đào tạo hoàn thành tốt nghiệp trở về nước, đáp máy bay xuống sân bay Gia Lâm.
Trong thời gian 1965-1968, ông Bảy tham chiến trên mặt trận không đối không và bắn hạ tổng cộng 7 máy bay Mỹ gồm hai chiếc F-105 và năm chiếc F-4, được xếp hạng ACES; được kết nạp Đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Tháng 4 năm 1966, ông tổ chức đám cưới với bà Trần Thị Niên là đồng hương, học sinh miền Nam tập kết ở sân bay Cát Bi.
Ngày 1/1/1967, ông được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Khi được tuyên dương, mang cấp bậc Thượng úy, Đại đội phó Đại đội 1 không quân, thuộc Trung đoàn 923, Bộ Tư lệnh Phòng không – Không quân.
Thời gian sau đó, ông dần được thăng lên hàm Đại tá và giữ nhiều chức vụ trong Quân chủng như Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 937, Phó Tư lệnh Sư đoàn 372, Phó tham mưu trưởng Quân chủng Không quân.
Năm 1975, ông tiếp quản sân bay Cần Thơ và tham gia điều hành các sân bay khác ở miền Nam như Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Cần Thơ và chỉ huy làm nhiệm vụ tại Campuchia.
Năm 1989, nghỉ hưu, ông làm Trưởng ban liên lạc cựu chiến binh Không quân tại TP.HCM. Năm 1990, ông về xã Tân Phú Đông, thị xã Sa Đéc sống cảnh điền viên cùng gia đình. Năm 2009 gia đình ông chuyển về quê ở ấp Hậu Thành, xã Hòa Thành, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp làm nghề nông.
Theo Thy Huệ/VTC