Polyp được dùng để chỉ một cục hay một khối nhô cao trên niêm mạc dạ dày. Đôi khi một u mỡ hay một u cơ trơn phát triển trong thành dạ dày có thể lồi ra niêm mạc gây nên một tổn thương dạng polyp. Polyp dạ dày không phải phổ biến, nó chiếm khoảng 5 – 10% các u của dạ dày.
Định kỳ 6 tháng – 1 năm nên soi dạ dày
Mặc dù các polyp thường được phát hiện ra một cách tình cờ khi soi dạ dày, song rối loạn tiêu hóa hoặc thiếu máu có thể gợi ý cho việc khám xét phát hiện tổn thương ở đường tiêu hóa. Có những polyp lành tính nhưng cũng có polyp biến chuyển ác tính. Polyp không chỉ phát triển đơn độc mà có khi vài chục hoặc vài trăm cái. Tùy theo loại polyp có thể phân biệt được lành hay ác.
Polyp tăng sản: Đây là loại polyp hay gặp nhất, chiếm trên 90% các trường hợp polyp ở dạ dày, thường liên quan tới HP và hay gặp nhất trong viêm dạ dày mạn tính. Polyp tăng sản được coi là loại không có tiềm năng ác tính, ung thư chỉ phát triển một tỷ lệ nhỏ ở polyp tăng sản và thường liên quan tới dị sản ruột và loạn sản tại chỗ.
Kích thước của polyp tăng sản thường nhỏ dưới 1,5cm và không có cuống. Tuy nhiên, một vài polyp có kích thước lớn trên 2cm hoặc có thể lên tới 4cm và có cuống rõ rệt. Về số lượng có thể có một hoặc nhiều polyp, có khi tới vài chục (gặp khoảng 20 – 25% các trường hợp).
Trên mô bệnh học, các polyp tăng sản thường biểu hiện sự pha trộn của các tổ chức tuyến quá sản kiểu tuyến môn vị với mô liên kết tăng sinh, phù nề và có chứa tế bào viêm, niêm mạc vùng xung quanh viêm mạn tính, đôi khi có thể teo.
Polyp u tuyến: Đây là loại u thực sự chiếm 5 – 10% các tổn thương dạng polyp ở dạ dày. Tỷ lệ bệnh tăng theo tuổi, đặc biệt hay gặp ở tuổi 70 trở lên. Tỷ lệ nam trên nữ là 2/1. Polyp thường có chứa đựng biểu mô loạn sản và phát triển nhanh. Vì vậy, được coi là loại có tiềm năng ác tính.
Kích thước của polyp u tuyến thường trên 2cm và lớn dần theo thời gian có thể tới 3 – 4cm hoặc hơn. Polyp có cuống hoặc không có cuống nhưng phần lớn có chân đế rõ. Vị trí hay gặp nhất là vùng hang vị và phần lớn chỉ có 1 polyp (2/3 số trường hợp). Mặt polyp xung huyết và có những nhú nhỏ.
Trên mô bệnh học, các tuyến tăng sinh và có cấu trúc hình ống, hình nhú hoặc ống nhú. Tế bào biểu mô tuyến tăng sinh có thể nhiều hàng lớp. Sự sắp xếp của tế bào có thể mất cực tính, tỷ lệ nhân trên nguyên sinh chất tăng, xuất hiện nhân chia không điển hình, tổn thương biểu hiện của một loạn sản. Mô liên kết tăng sinh và xâm nhập viêm.
Polyp u tuyến thường phát triển trên nền niêm mạc dạ dày viêm mạn tính với dị sản ruột chiếm ưu thế. Vào thời điểm bệnh được chẩn đoán có tới 40% các u tuyến dạ dày có chứa một ổ ung thư biểu mô và nguy cơ ung thư của niêm mạc dạ dày sát với u có thể lên tới 30%.
Polyp tuyến phình vị: Thường hiếm gặp và có liên quan tới bệnh đa polyp gia đình. Nói chung bệnh này thường vô hại, khả năng diễn biến thành ung thư chưa rõ ràng. Tuy nhiên, gần đây một số nghiên cứu cho thấy, tổn thương loạn sản và ung thư biểu mô cũng có phát hiện trên bệnh nhân đa polyp gia đình.
Ngoài ra một số tổn thương khác cũng có nguy cơ phát triển thành ung thư sớm, tiền ung thư như các tổn thương đột biến do tia xạ, do hóa chất hoặc phẫu thuật cắt đoạn dạ dày nhiều năm.
Chẩn đoán polyp chủ yếu bằng nội soi dạ dày và sinh thiết. Điều trị cắt bỏ polyp qua nội soi thường được áp dụng.
BSCK II Vũ Đức Chung
(Chủ nhiệm Khoa Nội tiêu hóa, Bệnh viện Quân y 354)