Chất lượng dân số được cải thiện nhiều mặt
Phát biểu tại hội thảo Cung cấp thông tin định hướng mới của chương trình dân số Việt Nam, ông Đoàn Doãn Tú, Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình cho biết, sau 25 năm thực hiện Nghị quyết lần thứ 4 Ban Chấp hành T.Ư khóa VII, Việt Nam đã kiểm soát được tốc độ gia tăng quy mô dân số, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nước ta đã đạt mức sinh thay thế vào năm 2006, trước 10 năm so với mục tiêu đề ra và tiếp tục duy trì đến nay, hạn chế tăng thêm hàng chục triệu người. Cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực. Dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh. Từ năm 2007, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng.
Chất lượng dân số được cái thiện nhiều mặt. Tuổi thọ trung bình tăng nhanh, đạt 73,4 tuổi vào năm 2016, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh. Tầm vóc thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Dân số được phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hóa và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.
Hội thảo cung cấp thông tin định hướng mới của chương trình dân số Việt Nam. |
Điều chỉnh sự bất cập nâng cao chất lượng dân số
Tuy nhiên, theo ông Đoàn Doãn Tú, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình vẫn còn nhiều hạn chế. Mức sinh giữa các vùng miền còn chênh lệch đáng kể. Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng; chưa có giải pháp đồng bộ phát huy lợi thế thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số. Người ít có điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng con còn đẻ nhiều, ảnh hưởng đến chất lượng dân số. Chỉ số phát triển con người (HDI) còn thấp. Tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn cao. Tầm vóc, thể lực người Việt Nam chậm được cải thiện. Tuổi thọ bình quân tăng trưởng nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp hơn so với nhiều nước...
Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống còn phổ biến ở một số đồng bào dân tộc ít người. Phân bố dân số, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất cập. Tiếp cận các dịch vụ cơ bản của người di cư và ở nhiều đô thị, khu công nghiệp còn nhiều hạn chế.
Công tác truyền thông, giáo dục về dân số ở một số khu vực, nhóm đối tượng hiệu quả chưa cao, vai trò nhà trường còn hạn chế. Nội dung truyền thông, cung cấp dịch vụ chưa toàn diện, chủ yếu tập trung vào kế hoạch hóa gia đình; tổ chức bộ máy thiếu ổn định, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác dân số tại các cấp cơ sở còn thấp. Nguồn lực đầu tư cho công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu…
Vì vậy, mục tiêu đặt ra cho ngành dân số trong tình hình mới là cần phải điều chỉnh mức sinh, duy trì mức sinh thay thế và giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, địa phương sẽ góp phần ổn định quy mô dân số, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực cho phát triển đất nước.
Việc điều chỉnh này sẽ giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, địa phương góp phần giảm khoảng cách chênh lệch hoặc chí ít cũng làm chậm lại tốc độ gia tăng khoảng cách về thu nhập, mức sống giữa các vùng, các nhóm dân cư, giảm đói nghèo ở các khu vực khó khăn, nơi thường có mức sinh cao.
Chẳng hạn, với 33 tỉnh/thành phố có mức sinh cao như Hà Tĩnh, Lai Châu, Quảng trị, Điện Biên, Nghệ An... cần tiếp tục áp dụng và nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích hiện hành các cặp vợ chồng, gia đình, tập thể, cộng đồng không có người sinh con thứ ba trở lên. Đề xuất ban hành các chính sách hỗ trợ, khuyến khích của địa phương để thực hiện cuộc vận động “Dừng lại ở hai con để nuôi, dạy cho tốt”.
Ở địa phương đã đạt mức sinh thay thế, căn cứ tình hình thực tế của địa phương, rà soát, từng bước bãi bỏ các chính sách khuyến khích sinh ít con. Đồng thời, từng bước đề xuất ban hành, thực hiện các chính sách khuyến khích sinh đủ hai con áp dụng cho các gia đình, cộng đồng tại địa phương.
Đối với những tỉnh có mức sinh thấp (21 tỉnh: TPHCM, Đồng Tháp, Hậu Giang...), Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình xác định nhiệm vụ trọng tâm cần triển khai các giải pháp tổng hợp, đồng bộ và hiệu quả để khuyến khích người dân sinh đủ hai con.
Bên cạnh đó, đề xuất bãi bỏ các quy định của các tổ chức, cơ quan, đơn vị, cộng đồng tại địa phương liên quan đến mục tiêu giảm sinh, tiêu chí giảm sinh con thứ 3.
Đề xuất sửa đổi, bổ sung các chính sách hỗ trợ, khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ hai con như: hỗ trợ, tư vấn sức khỏe trước khi kết hôn; tư vấn, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em bao gồm sàng lọc vô sinh, sàng lọc trước sinh và sau sinh, phòng chống suy dinh dưỡng…
Để giải quyết toàn diện các vấn đề phát sinh trong công tác dân số trong thời kỳ mới, theo ông Nguyễn Doãn Tú, Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XII trong Hội nghị lần thứ 6 đã đề ra nghị quyết về công tác dân số trong thời kỳ mới với mục tiêu chung là giải quyết toàn diện các vấn đề dân số về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời, duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh và bền vững.