Nhài có tên khoa học là Jasminum sambac (L.), Ait, thuộc họ nhài – Oleaceae. Hoa màu trắng, thơm ngát, quả hình cầu, màu đen, bao bởi đài, có 2 ngăn. Bộ phận thường dùng làm thuốc: Hoa, lá và rễ. Vào mùa thu đông người ta đào lấy rễ, rửa sạch, thái nhỏ, phơi hay sấy khô. Lá thu hái quanh năm. Hoa thu hái vào hè thu, khi mới nở, dùng tươi hay phơi khô.
Hoa và lá nhài có vị cay và ngọt, tính mát. Hoa lá trấn thống, thanh nhiệt giải biểu, lợi thấp. Rễ hơi có độc, có tác dụng trấn thống, gây tê, an thần. Trong hoa có một chất béo thơm, hàm lượng 0,08%. Thành phần chủ yếu của chất béo này là parafin, ester formic acetic-benzoic-linalyl và este anthranylic metyl và indol.
Công dụng, hoa và lá dùng trị ngoại cảm phát sốt, đau bụng, ỉa chảy, lỵ, mụn nhọt độc. Hoa sắc nước dùng rửa mặt, chữa viêm màng khoé mắt và màng mộng, chữa trẻ em lên sởi có sốt, sởi mọc không đều. Lá cũng dùng trị bạch đới. Lá khô ngâm trong nước rồi làm thành dạng thuốc đắp trị loét ngoan cố. Rễ trị mất ngủ, đòn ngã bị thương, dùng để điều kinh, nước sắc bôi trị viêm mũi, viêm giác mạc.
Liều dùng: 3-5g hoa, lá dạng thuốc sắc, còn dùng hoa pha làm trà uống; dùng 1-1,5g rễ nghiền trong nước. Người có thai và cơ thể suy nhược không nên dùng.
Một số bài thuốc
Ngoại cảm phát sốt, ỉa chảy: Hoa nhài 6g, chè xanh 10g, thảo quả 3g sắc uống.
Đau mắt: Hoa nhài 6g, dùng riêng hay phối hợp với kim ngân hoa và hoa bạch cúc, mỗi vị 9g, đun sôi lấy nước xông rồi uống. Hoặc lấy lá giã vắt lấy nước, trộn với lòng trắng trứng gà đắp.
Mất ngủ: Rễ nhài 1-1,5g nghiền trong nước, lấy hỗn dịch uống.
Rôm sẩy: Lá nhài vò vào nước để tắm, có thể phối hợp với lá ngải cứu.
BS Nguyễn Phan Trúc Nguyên (Vũng Tàu)