Cây dướng là loại cây mọc hoang ở các tỉnh phía Bắc nước ta. Dướng là loại cây to sống lâu năm, cao thông thường từ 10-16m, vỏ thân cây nhẵn màu nâu tro, lá đơn, mép có răng cưa, đầu lá nhọn, mặt dưới có lông dính, cụm hoa đực dạng bông dài, mọc ở ngọn cành, cụm hoa cái hình đầu nhiều hoa phủ đầy lông, quả mọng có đường kính tới 3cm, chín đỏ rất mềm. Mùa hoa của cây dướng vào các tháng từ 5-6 hằng năm. Mùa quả thu hoạch vào tháng 8-11.
Tất cả các bộ phận của cây dướng đều có thể dùng làm thuốc. Lá dướng có vị ngọt, tính hàn, công dụng trị tả, cầm máu, làm thuốc nhuận tràng sử dụng cho trẻ em, nấu xông chữa cảm mạo. Vỏ, rễ cây dướng có vị ngọt, tính bình, lợi tiểu, tiêu sưng, chữa lỵ, cầm máu. Nhựa của cây dướng có tính chất sát khuẩn nên thường được sử dụng để đắp lên các vết thương do ong đốt, chó cắn hoặc còn đắp cho cả vết rắn cắn...
Quả dướng Đông y còn gọi với tên là chử thực tử và cho rằng vị ngọt, tính lạnh, không độc đi vào các kinh tỳ và tâm, có công hiệu bổ thận, thanh can, minh mục, lợi tiểu.
Phân tích thành phần trong quả dướng thấy có 5% lignin, canxi cacbonat, acid xetoric, các men lipaza, proteaza, zimaza cùng 0,5% saponin... Hơn nữa, vị ngọt của quả dướng vào tỳ, thổ hóa làm bền chặt tỳ, thổ lại làm tiêu được phù thũng, khí được bổ ích, cơ nhục được đầy đủ.
Uống nước ép quả dướng có tác dụng bổ thận, cường dương, bổ tỳ ích khí đều làm cho 5 tạng mạnh lên. Quả dướng nếu uống lâu có thể làm sáng mắt, mạnh gân cốt, chống lão hóa, nhẹ mình...
Để hỗ trợ trị liệu đau thần kinh tọa có thể dùng:
Quả dướng chín lượng vừa đủ đem ngâm nước 3 ngày, sau đó vớt ra, để ráo rồi ngâm rượu trắng trong 10 phút, tiếp đó đem nấu trong 12 giờ, cuối cùng là đem sấy hoặc phơi khô, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày ăn 10-15g.
Quả dướng 15g, sắc uống.
Quả dướng 12g, đỗ trọng 12g, ngưu tất 12g, quế nhục 5g, thổ phục linh 12g, sắc uống hàng ngày.
Ngoài ra, người ta còn dùng lá dướng non nấu canh ăn hoặc lá dướng non 12g, lá ngải cứu 60g, nấu nước xông thắt lưng và dọc sau chân nơi đau.
BS Khánh Hiển (Bệnh viện TƯQĐ 108)