33% trẻ sinh non và 3 - 4% trẻ đủ tháng bị bệnh
Bé Hoàng Gia V. (03 tuổi ở Kinh Môn, Hải Dương) nhập viện trong tình trạng gia đình kiểm tra không thấy tinh hoàn bên trái trong bìu của bé. Kết quả siêu âm cho thấy hình ảnh tinh hoàn trái nằm trong lỗ bẹn nông, nhu mô đều, không có khối khu trú, xung quanh không có dịch...
Qua hội chẩn chuyên khoa, các bác sĩ chẩn đoán trẻ bị: Tinh hoàn trái lạc chỗ và chỉ định phẫu thuật hạ tinh hoàn lạc chỗ. Trong quá trình mổ các bác sĩ tiến hành giải phóng tinh hoàn trái khỏi tổ chức dây xơ ống bẹn, hạ tinh hoàn xuống bìu và cố định tinh hoàn dưới bìu. Ca phẫu thuật diễn ra trong khoảng 30 phút. Sau mổ hiện tại sức khỏe của bé ổn định, dự kiến sau khoảng 3 ngày bé có thể xuất viện.
BS Nguyễn Tiến Thành, Khoa Ngoại và chuyên khoa, Bệnh viện Sản Nhi Quảng Ninh cho biết, tỷ lệ tinh hoàn ẩn chiếm 33% ở bé trai sinh non, 3 - 4% ở trẻ sinh đủ tháng. Đây là tình trạng tinh hoàn không nằm đúng vị trí (trong bìu) khi trẻ đã được sinh ra mà nằm trong ổ bụng hoặc trên đường di chuyển từ bụng qua ống bẹn, xuống bìu.
Lý giải về việc tinh hoàn ẩn, GS.TS Đỗ Trọng Hiếu, nguyên Vụ trưởng Vụ Sức khỏe sinh sản, Bộ Y tế cho biết, khi còn trong bào thai tinh hoàn vẫn nằm trong ổ bụng, sau đó di chuyển dần xuống bìu. Khi sinh ra, hơn 90% tinh hoàn đã nằm trong bìu, số còn lại đang trên đường di chuyển, muộn nhất sau 1 năm tinh hoàn mới ổn định xuống hết trong bìu qua ống bẹn. Tinh hoàn có thể nằm ngay dưới thận, lỗ bẹn sâu, ống bẹn, lỗ bẹn nông, ngay phía trên bìu. Trẻ có thể bị tinh hoàn ẩn một bên hoặc cả 2 bên, khoảng 2/3 trường hợp trẻ bị một bên. Cần phân biệt tinh hoàn ẩn với tinh hoàn lạc chỗ. Tinh hoàn lạc chỗ là tinh hoàn nằm ngoài những vị trí trên đường đi xuống bìu, một số vị trí hay gặp nhất là ổ bụng, đáy chậu, bẹn, mu.
Vô sinh và nguy cơ ung thư tinh hoàn cao gấp 40 lần
GS.TS Đỗ Trọng Hiếu nhấn mạnh, tinh hoàn ẩn là một dị tật bẩm sinh cần phát hiện ngay sau khi sinh và theo dõi trong vòng 6 tháng tinh hoàn còn tiếp tục di chuyển, sau 1 năm chúng không còn di chuyển xuống nữa, sau 2 năm các tế bào dòng tinh bắt đầu bị ảnh hưởng. Vì vậy, nên điều trị tinh hoàn ẩn trước 2 tuổi vì có nhiều bằng chứng cho thấy tế bào sinh tinh không bị tổn thương khi tinh hoàn được đưa xuống trước thời gian này.
Phẫu thuật là một trong những phương pháp điều trị hiệu quả nhất. Kéo tinh hoàn xuống và cố định trong bìu là biện pháp tương đối đơn giản. Hai đường rạch nhỏ ở bẹn và trong ống bẹn để kéo tinh hoàn xuống và hai đường rạch nhỏ ở bìu để cố định tinh hoàn. Vài giờ sau phẫu thuật bệnh nhi có thể ra viện. Việc không phát hiện và điều trị sớm không chỉ gây ảnh hưởng nặng nề tới tâm lý mà còn gây vô sinh và nguy cơ ung thư.
Thời điểm tốt nhất để phẫu thuật là khi trẻ được 1 tuổi vì sau 1 tuổi trong tinh hoàn ẩn sẽ xuất hiện tế bào Leydig bất thường, làm giảm số lượng tế bào mầm và xuất hiện xơ hóa quanh các ống sinh tinh. Tình trạng giảm khả năng sinh sản có thể gặp trong tinh hoàn ẩn một bên hoặc cả hai bên. Nếu tinh hoàn ẩn 1 bên thì số lượng tinh trùng nhiều khả năng vẫn bình thường. Nếu tinh hoàn ẩn ở cả 2 bên và đều được điều trị phẫu thuật mổ tinh hoàn thì chỉ 25% trường hợp có số lượng tinh trùng bình thường.
Ngoài ra, sau phẫu thuật điều trị, bệnh nhi cần phải tiếp tục theo dõi nguy cơ ung thư tinh hoàn vì nam giới bị tinh hoàn ẩn có nguy cơ ung thư cao gấp 40 lần so với người bình thường. Quá trình ung thư thường xảy ra vào độ tuổi trên 30 tuổi.
Các số liệu cho thấy tỷ lệ có con (tự nhiên) ở nam giới bị tinh hoàn ẩn sau phẫu thuật mổ tinh hoàn như sau:
- 90% nếu điều trị ở giữa 1 - 2 tuổi;
- 50% nếu điều trị ở giữa 2 - 3 tuổi;
- 40% nếu điều trị giữa 5 - 8 tuổi;
- 30% nếu điều trị giữa 9 - 12 tuổi;
- Chỉ còn 15% nếu điều trị khi quá 15 tuổi.