Nhóm giải pháp phòng ngừa
Khác với loại lũ nước trên sông, suối miền núi, lũ bùn đá có hàm lượng chất rắn lớn là tác nhân chính tạo nên sức tàn phá khủng khiếp đối với cơ sở hạ tầng, đất canh tác, người, động thực vật và tài sản. Do các hoạt động thiếu bền vững của con người như: Làm đường, xây nhà, khai thác mỏ, chặt phá rừng cũng như sự thay đổi cực đoan của thời tiết và biến đổi khí hậu tạo nên mưa lớn, mưa tập trung, lũ bùn đá xảy ra ở Việt Nam với tần suất và cường độ ngày càng tăng trong những năm gần đây. Nhằm phòng chống và giảm thiểu tác hại lũ bùn đá, nhiều giải pháp công trình đã được nghiên cứu áp dụng hiệu quả ở các nước phát triển trên thế giới, nhưng chưa từng được áp dụng tại nước ta.
Nhóm giải pháp phòng tránh phát sinh lũ bùn gồm các biện pháp công trình chỉnh trị mái dốc, chỉnh trị lòng dẫn, chỉnh trị bãi, các biện pháp quản lý hành chính và pháp lệnh, để tiến hành chỉnh trị tổng hợp lưu vực, kiểm soát đất và nước, cải thiện môi trường, nhằm phòng tránh phát sinh lũ bùn đá. Tiếp đó là nhóm giải pháp kiểm soát vận động lũ bùn đá chủ yếu sử dụng công trình dẫn dòng, công trình đập dâng, đập chắn bùn đá, đập dâng điều tiết. công trình điều tiết, để khi lũ bùn đá phát sinh thì sẽ chảy qua thuận lợi, hoặc tích tụ tại khu vực dự trù trước, nhằm không gây thiệt hại cho khu vực cần bảo vệ.
Nhóm giải pháp dự phòng rủi ro lũ bùn đá gồm dự phòng trước khi xảy ra lũ quét bùn đá, lựa chọn giải pháp dự báo, cảnh báo trong khi xảy ra lũ quét bùn đá, giải pháp bảo vệ đối với hạng mục công trình trong khu vực nguy hiểm nếu lũ bùn đá xảy ra, để trong quá trình hoạt động lũ bùn đá không gây thiệt hại nghiêm trọng.
Xây đập chắn bùn đá
Đối với giải pháp công trình, trong khu vực sinh lũ lấy việc khống chế sản sinh bùn đá làm chủ đạo, ngăn cản bùn đá dịch chuyển. Cần làm là khôi phục thảm phủ, trồng rừng với nhiều tầng lớp chủng loại cây khác nhau, làm rãnh thoát nước mặt, xây đập chắn bùn đá (dạng đập dâng bằng bê tông có khe hoặc lỗ hở) ở các khe suối, đê dẫn dòng, bảo vệ mái dốc, bảo vệ lòng dẫn…). Ở khu vực dịch chuyển lấy việc dẫn dòng làm chủ đạo, đảm bảo đường thoát lũ thuận lợi. Tại vị trí địa hình thuận lợi, sử dụng giải pháp đập ngăn bùn đá, cát nhằm giảm bùn đá, giảm thế năng, kiểm soát lưu lượng nước và bùn đá. Công trình ngăn cản bùn đá gồm có: đập bê tông trọng lực và đập răng lược, khu lắng đọng, đê dẫn dòng, bảo vệ mái và lòng dẫn sau đập.
Trong các loại giải pháp công trình thì đập chắn bùn đá đóng vai trò quan trọng và được sử dụng phổ biến nhất. Tùy thuộc vào diện tích, quy mô, đặc tính dòng lũ bùn đá sẽ áp dụng các giải pháp khác nhau. Dòng lũ bùn đá chia thành ba khu, gồm: khu sinh lũ, khu vận chuyển lũ và khu tích tụ, có đặc thù riêng nên có các nhóm giải pháp phòng chống khác nhau. Việc lựa chọn các giải pháp công trình còn căn cứ vào mật độ dân cư, hay mức độ quan trọng của khu vực cần bảo vệ. Các giải pháp phải được sử dụng theo hướng tổng hợp, bổ trợ lẫn nhau, đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường.
Một giải pháp công trình đơn lẻ không thể phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai lũ bùn đá một cách hiệu quả cho một khu vực bị lũ bùn đá. Các công trình nghiên cứu tại Việt Nam về lũ quét, lũ bùn đá đã đạt được những thành tựu đáng kể như: Điều tra phân tích nguyên nhân hình thành, cơ chế vận động; lập bản đồ phân vùng thiên tai lũ quét, sạt lở đất; áp dụng một số hệ thống quan trắc, cảnh báo lũ quét trên sông miền núi. Tuy vậy, các giải pháp công trình phòng trị lũ bùn đá chưa được nghiên cứu đầy đủ và áp dụng.
Suối lũ bùn đá phân chia thành ba khu vực: khu sinh lũ, khu dịch chuyển lũ và khu tích tụ. Lũ ở mỗi khu vực có đặc trưng riêng nên phải sử dụng các giải pháp công trình phòng chống khác nhau. Lựa chọn các giải pháp công trình ngoài việc căn cứ vào đặc trưng bản thân dòng lũ, còn căn cứ vào mật độ dân cư, cơ sở hạ tầng, mức độ quan trọng của khu vực cần bảo vệ. Các giải pháp công trình nên được áp dụng theo hướng tổng hợp, bổ trợ lẫn nhau, đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường.
Nghiên cứu này thuộc đề tài cấp Bộ NN &PTNT “Nghiên cứu đề xuất, ứng dụng giải pháp khoa học công nghệ phù hợp trong phòng, chống và giảm thiểu rủi ro lũ quét tại khu vực miền núi phía Bắc giai đoạn 2019 - 2021”.
TS Vũ Bá Thao (Viện Thủy công, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam)