Dưới đây là các kết quả chính:
Nguy cơ ung thư tuyến giáp khi sử dụng GLP-1
Nghiên cứu từ bác sĩ Juan Brito Campana của Bệnh viện Mayo cho thấy người dùng mới thuốc GLP-1 receptor agonists có nguy cơ ung thư tuyến giáp rất thấp.
Trong số 41.000 bệnh nhân tiểu đường loại 2 có nguy cơ tim mạch vừa phải, chỉ 0,17% trong nhóm GLP-1 phát triển ung thư tuyến giáp, dù có sự gia tăng tương đối trong năm đầu sử dụng.
Nguy cơ ác tính ở các nốt tuyến giáp Bethesda III và IV
Nghiên cứu của bác sĩ Sapir Nachum Goldberg từ Đại học Pennsylvania đã phân tích các nốt tuyến giáp Bethesda III và IV có kết quả ThyroSeq âm tính.
Kết quả cho thấy tỷ lệ ác tính thực sự có thể dao động từ 3% đến 23%. Goldberg khuyến nghị nên tái kiểm tra hoặc theo dõi bằng siêu âm với các nốt "âm tính nhưng giới hạn".
Bác sĩ chỉ rõ những nguy cơ, chẩn đoán và điều trị ung thư tuyến giáp - Ảnh minh hoạ |
Ung thư tuyến giáp thể tủy có đột biến RET
Bác sĩ Julien Hadoux từ Viện Ung thư Gustave Roussy, Pháp, báo cáo hiệu quả của thuốc selpercatinib ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể tủy có đột biến RET.
Phân tích cho thấy thuốc này có hiệu quả kéo dài trong tất cả các nhóm đột biến RET, với thời gian sống không tiến triển trung bình chưa đạt tới ở nhóm M918T và cysteine ngoại bào.
Ung thư tuyến giáp biệt hóa có TRK-fusion
Nghiên cứu của bác sĩ Steven Waguespack từ MD Anderson Cancer Center cho thấy thuốc larotrectinib cho hiệu quả đáp ứng nhanh và bền lâu ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp biệt hóa có TRK fusion, với tỷ lệ sống sót sau 4 năm đạt 86%. Tuy nhiên, hiệu quả này thấp hơn ở ung thư tuyến giáp thể không biệt hóa.
Các nghiên cứu này đưa ra hướng dẫn quan trọng trong việc đánh giá và điều trị ung thư tuyến giáp, nhấn mạnh vai trò của chẩn đoán chính xác và phương pháp điều trị cá nhân hóa cho bệnh nhân.
Bác sĩ Nguyễn Xuân Tuấn (Bệnh viện Ung bướu Hưng Việt)