Phân loại F0 theo 4 nhóm nguy cơ

Bộ Y tế vừa ban hành quyết định phân loại người mắc bệnh COVID-19 theo 4 nhóm nguy cơ để xử trí, cách ly, điều trị người bệnh trên toàn quốc.

Hiện nay, việc áp dụng phân loại nguy cơ và xử trí, cách ly, chuyển viện điều trị thiếu nhất quán giữa các địa phương đang làm ảnh hưởng đến hiệu quả phòng, chống dịch.

Quyết định số 5525/QĐ-BYT được Bộ Y tế ban hành kèm hướng dẫn phân loại nguy cơ người nhiễm SARS-CoV-2 và định hướng xử trí, cách ly, điều trị, thay thế cho Quyết định số 3646 ban hành ngày 31/7.

Theo hướng dẫn này, việc phân loại theo 4 nhóm nguy cơ (theo bảng màu đỏ- cam- vàng và xanh) và định hướng xử trí, cách ly, điều trị, cụ thể:

Nguy cơ thấp (màu xanh): Tuổi từ 3 tháng trở lên đến dưới 49 tuổi và chưa phát hiện bệnh lý nền, đã tiêm đủ liều văcxin, sức khoẻ chưa có dấu hiệu bất thường và SpO2 từ 97% trở lên.

Đối với nhóm này được chăm sóc tại nhà riêng (đủ điều kiện theo quy định). Trạm y tế, nhân viên y tế, tình nguyện viên… theo dõi, quản lý người nhiễm, phát hiện sớm dấu hiệu chuyển tầng cao hơn.

Cùng với đó, hỗ trợ tâm lý, dinh dưỡng, vận động, theo dõi sức khoẻ liên tục, đánh giá nguy cơ. Đồng thời, cung cấp gói chăm sóc tại nhà (thuốc kháng virus, vitamin, nhu yếu phẩm…)

Nguy cơ trung bình (màu vàng): Từ 50-64 tuổi, chưa phát hiện bệnh lý nền và đã tiêm đủ liều văcxin; tuổi từ 3 tháng đến dưới 49 tuổi và chưa tiêm đủ liều văcxin; có dấu hiệu như: Sốt, ho, đau họng, khó thở nhẹ… và SpO2 từ 97% trở lên.

Nhóm này điều trị tại bệnh viện, cơ sở thu dung điều trị COVID-19 (tầng 1). Nếu cơ sở điều trị tầng 1 của địa phương quá tải thì có thể xem xét điều trị tại cộng đồng.

Theo hướng dẫn, với nhóm nguy cơ trung bình cần theo dõi sát sao, phát hiện sớm dấu hiệu thay đổi cần nhập viện ngay hoặc chuyển tầng cao hơn. Việc điều trị bằng thuốc kháng virus; điều trị triệu chứng như: Hạ sốt, giảm đau, giảm ho cùng với nâng cao thể trạng, dinh dưỡng, vật lý trị liệu, hỗ trợ tâm lý…

dieu-tri-f0.jpeg
Bạn là F0 thuộc nhóm nguy cơ điều trị nào?

Nguy cơ cao (màu cam): Tuổi từ 65 trở lên và đã tiêm đủ liều văcxin; mắc bệnh lý nền và đã tiêm đủ liều văcxin; từ 50-64 tuổi, chưa phát hiện bệnh lý nền và chưa tiêm đủ liều văcxin; phụ nữ có thai, vừa sinh con dưới 42 ngày; trẻ em từ dưới 3 tháng tuổi; SpO2 từ 94%-96%.

Với nhóm này điều trị tại Bệnh viện thu dung điều trị COVID-19 (tầng 2). Theo dõi phát hiện sớm dấu hiệu chuyển tầng cao hơn; điều trị thuốc kháng virus, dinh dưỡng, điều trị dự phòng thuốc chống đông, bảo đảm sẵn sàng hỗ trợ oxy và dùng thuốc chống viêm khi suy hô hấp; theo dõi điều trị kết hợp bệnh lý nền.

Nguy cơ rất cao (màu đỏ): Tuổi từ 65 trở lên và chưa tiêm đủ liều vắc xin; mắc bệnh lý nền và chưa tiêm đủ liều vắc xin; có tình trạng cấp cứu; SpO2 dưới 94%.

Nhóm này điều trị tại Bệnh viện thu dung điều trị COVID-19 (tầng 2,3); Trung tâm Hồi sức tích cực COVID-19 (căn cứ theo chỉ định của bác sĩ và số giường bệnh).

Với nhóm nguy cơ rất cao, việc điều trị tập trung hỗ trợ thở: Thở oxy, thở HFNC, thở máy, ECMO (thiết bị tim, phổi nhân tạo), hỗ trợ các cơ quan suy chức năng (chạy thận, lọc máu, trợ tim, vận mạch…).

Đồng thời, điều trị chống viêm, chống đông, kháng sinh, vật lý trị liệu, phục hồi chức năng, phòng ngừa biến chứng… Theo dõi điều trị kết hợp bệnh lý nền, chuyển tầng điều trị thấp hơn nếu đáp ứng điều trị.

Theo Đời sống
Trời lạnh đề phòng liệt mặt, méo miệng

Trời lạnh đề phòng liệt mặt, méo miệng

Bệnh liệt mặt, méo miệng xảy ra là do khi cơ thể bị lạnh làm co thắt mạch nuôi dây thần kinh số 7 gây ra tình trạng thiếu máu cục bộ, phù và chèn ép dây thần kinh ở đoạn trong ống Fallope của người bệnh.
back to top