Công nghệ phải khả thi về nhân lực và tài lực
Bộ KH&CN đang nghiên cứu, lựa chọn xây dựng để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục các công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Đây là các công nghệ chủ chốt của CMCN 4.0 phải là công nghệ cao được các tổ chức quốc tế uy tín đánh giá phù hợp với xu hướng phát triển và tiềm năng ứng dụng. Đồng thời, phải là các công nghệ có thể phát huy được lợi thế của đất nước, phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 - 2030. Công nghệ được lựa chọn phải đảm bảo tính khả thi cao trong việc thu hút đầu tư, ứng dụng công nghệ, chuyển giao công nghệ hoặc sáng tạo được công nghệ; khả thi về nhân lực và tài lực đối với việc tiếp thu, chuyển giao và sáng tạo công nghệ.
PGS.TS Nguyễn Văn Thuận, Trưởng khoa Công nghệ sinh học, Trường Đại học Quốc tế TPHCM cho rằng, đây đều là những công nghệ đang là xu thế và được ưu tiên phát triển ở các quốc gia lớn trên thế giới. Trong số đó có những công nghệ đang được áp dụng ở nước ta mấy năm gần đây, nhưng cũng có những công nghệ hoàn toàn mới mẻ đối với Việt Nam. Tuy nhiên, để ưu tiên tập trung phát triển, thì chúng ta chỉ nên chọn một hoặc 2 công nghệ chứ không nên quá nhiều. Mỗi công nghệ đó lại liên quan đến rất nhiều công nghệ phụ trợ. Nếu là cái mới thì chấp nhận nhập khẩu, sau đó làm chủ nó và biến nó thành của mình. Đây cũng là cách mà một số quốc gia trên thế giới đã và đang làm.
Chỉ nên tập trung vào công nghệ mũi nhọn?
Cùng quan điểm, PGS.TS Đinh Duy Kháng, nghiên cứu viên cao cấp, Phòng Vi sinh vật học phân tử, Viện Công nghệ Sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam cho biết, trong danh sách 12 công nghệ ở lĩnh vực công nghệ sinh học, có những công nghệ đúng là còn quá mới ở Việt Nam. Một số công nghệ đã có như sinh học tổng hợp đã sản xuất được một số chế phẩm quan trọng điều trị bệnh hiểm nghèo như ung thư và đang tiếp tục phát triển. Công nghệ tế bào gốc được đặc biệt quan tâm trong một số năm gần đây và đã đạt được một số kết quả ở một số cơ sở như Đại học Quốc gia TPHCM, Bệnh viện Vinmec… Hay công nghệ chuẩn đoán hình ảnh y-sinh đã được áp dụng từ lâu tại Việt Nam.
Tuy vậy, đa số các công nghệ còn lại quá mới mẻ ở Việt Nam. Ví dụ như công nghệ thần kinh, công nghệ này không chỉ giúp điều trị bệnh liên quan tới thần kinh mà còn giúp cho sự phát triển của nhiều công nghệ khác như trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa, robot... Công nghệ này ở Việt Nam chưa phát triển. Công nghệ tin sinh học ở Việt Nam đã có nhưng chưa phát triển. Không có công nghệ này thì các nhà sinh học không thể nào xử lý, phân tích được số liệu khổng lồ của ngành sinh học ngày nay (ví dụ số liệu sau khi giải trình tự gene bằng công nghệ giải trình tự gene thế hệ mới, mô phỏng các phân tử, dự đoán cấu trúc...). .
Công nghệ chip sinh học và cảm biến sinh học giao thoa giữa các ngành khác nhau như miễn dịch học, sinh học phân tử, hóa học và điện tử bán dẫn-tự động hóa. Công nghệ này đòi hỏi các ngành công nghệ phát triển đồng bộ ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Đức, Anh... Công nghệ này hiện tại khó phát triển ở Việt Nam. Hay công nghệ y học cá thể hóa là khái niệm mới, đặc biệt là ở Việt Nam, tuy nhiên, nó rất quan trọng trong nền y học hiện đại và đang được thực hiện ở nhiều quốc gia phát triển. Nghiên cứu y học cá thể hóa là nghiên cứu thông tin sinh học của mỗi cá nhân để đưa ra hướng dự phòng (khi chưa phát bệnh) và điều trị (khi đã phát bệnh) là cực kỳ cần thiết. Công nghệ này rất quan trọng, tuy nhiên rất khó phát triển ở Việt Nam.
Công nghệ nào cần ưu tiên phát triển trước, theo PGS.TS Đinh Duy Kháng, điều quyết định thành công là các nhà lãnh đạo, hoạch định chính sách phải biết ưu tiên công nghệ nào vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, làm từ thấp đến cao, từ dễ đến khó để mỗi công nghệ tác động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế xã hội, chính sự phát triển ấy sẽ kéo theo sự phát triển của các công nghệ tiếp theo.