Việc xét xử thời phong kiến luôn được quan tâm, các triều đại sớm hình thành hệ thống cơ quan thực thi pháp luật là tòa án và các quy trình xét xử vụ án…
Hình minh họa.
Phân cấp xét xử
Đến thời Tiền Lê, quyền tư pháp tuyệt đối thuộc nhà vua vẫn được áp dụng triệt để.
Dưới thời Lý, nhà vua tuy vẫn giữ quyền xét xử các vụ kiện tụng trong nước như các vị vua đời trước, nhưng đã san sẻ bớt quyền này cho các quan địa phương.
Thời Lê Thánh Tông, cả nước chia thành 12 đạo, mỗi đạo có một tòa Đô, tòa Thừa, tòa Hiến, trong đó tòa Hiến coi việc hình án, đứng đầu có hai vị quan Hiến sát chánh sứ và Hiến sát phó sứ.
Trong nước có 52 phủ, 172 huyện và 50 châu. Các quan phủ, huyện, châu đều có quyền xét xử cả hình án.
Thời Lê Chân Tông, những việc kiện về hộ tịch, hôn nhân, ruộng đất, trước hết phải qua xã trưởng, rồi đến quan huyện. Huyện không xử xong thì kêu lên quan phủ.
Nếu cho rằng quan phủ xét đoán không công bằng, người dân kêu lên Thừa ty. Nếu thấy Thừa ty chưa được công bằng thì kêu lên Hiến ty.
Hiến ty ở đạo xét xử không xong, vụ việc mới được đưa lên Cai đạo ngự sử (cơ quan giám sát hoạt động của các đạo).
Nghi ngờ Cai đạo ngự sử xét xử chưa chuẩn thì mới kêu lên Ngự sử đài – Tòa án cao cấp nhất trong nước, cơ quan giám sát, kiểm soát hoạt động của toàn bộ hệ thống triều đình và các địa phương.
Ngự sử đài có trách nhiệm xem xét lại kỹ lưỡng, phân biệt gian ngay từng bản án, tra xét thực trạng hối lộ của các viên quan…
Quy định về giám sát xét xử
Quy định thời Lê yêu cầu, các vụ án liên quan đến nhân mạng trước hết phải báo cáo với chánh tổng và xã trưởng đến khám nghiệm qua, rồi trình lên quan phủ, quan huyện.
Quan phủ, huyện theo đồ án khám nghiệm, trình lên hai ty Thừa, Hiến ở đạo.
Thừa ty là cơ quan xét xử, có vai trò như tòa án ngày nay, còn Hiến ty thẩm định lại bản án để tuân hành.
Trong các vụ án, nếu khổ chủ thấy hai ty Thừa, Hiến ở lộ xử chưa hợp lệ thì được phép khải lên bộ Hình để xem xét lại.
Đến đời Lê Hy Tông, quy định về thời hạn xử án liên quan đến nhân mạng được mở rộng, cho phép xét xử trong vòng một năm. Đến năm 1687, thời hạn rút về bốn tháng như cũ.
Theo Lịch triều hiến chương loại chí, kỳ hạn xét xử các loại kiện tụng triều Lê được quy định như sau: Kiện về hộ tịch, hôn nhân có thời hạn một tháng; kiện về ruộng đất, trộm cướp, thời hạn ba tháng; kiện mưu sát, thời hạn bốn tháng. Các kỳ hạn đều tính bắt đầu từ ngày bắt được nghi phạm.
Việc kiểm tra, giám sát quá trình xử án, thời Lê Thần Tông triều đình quy định: nếu thấy quan huyện làm không đúng, quan phủ có quyền điều tra xem xét, trình lên Thừa ty để theo đó khải lên đến Chúa.
Quan phủ mà làm không đúng thì cho phép Thừa ty khải lên.
Thừa ty sai sót thì cho phép Hiến ty khải lên. Hiến ty không đúng thì cho Cai đạo khải lên.
Cai đạo không đúng thì cho Ngự sử đài khải lên. Ngự sử đài không đúng thì đưa ra công đồng bàn xét.
Những người bị xét khải thì tùy nặng nhẹ mà xử, nhẹ thì xử phạt, nặng thì bị biếm bãi (cách chức).
(còn nữa)
Nguyễn Thành Hữu