Tiền nhân nghiêm trị thói sách nhiễu dân bởi đây là một tệ nạn trong tầng lớp quan lại phong kiến, là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự mục nát, sụp đổ của các triều đại.
Vua Trần Minh Tông.
Trần Minh Tông không vì tình nhà
Nhưng trước đó, khi nạn sách nhiễu, bòn rút của dân thành tệ nạn, thì cha ông ta đã từng có “biện pháp”.
Triều Trần có bà Trần Thị Thái Bình, là cung tần của Thượng hoàng Trần Anh Tông, nhưng tính tham lam, hay dựa vào vị thế của mình chiếm đoạt ruộng đất của dân lành, đến nỗi dân ức chế phải kiện lên hữu ty. Và việc này đến tai vua Trần Minh Tông.
Dù là thê thiếp của vua cha nhưng Trần Minh Tông không bênh vực, mà giao cho Uy Giản hầu, là con rể bà Thái Bình và lệnh rằng: “ngươi nên theo đơn mà trả ruộng cho dân”.
Uy Giản hầu không vì tình nhà, mà như ghi chép trong Toàn thư cho hay: “lập tức vâng chiếu trả ruộng. Sau bà Thái Bình chết, Uy Giản đem tất cả ruộng đất bà chiếm đoạt khi trước trả lại cho chủ cũ. Vua vì thế khen ông”.
Dẫu thân thích, gần gũi đến thế, nhưng từ vua Minh Tông đến Uy Giản hầu đều lấy phép nước, lợi ích của dân làm trọng chứ không vì tình nhà mà để cho thân thích bòn rút của dân lành. Trên đã ngay như thế, lẽ dĩ nhiên dưới phải thẳng thớm tuân theo.
Yêu dân phải hết lòng thành
Vào thời Lê, quan lại được coi như cha mẹ dân, phải hết lòng yêu thương chăm sóc dân. Vua Lê Thái Tông từng dụ rằng: “Đạo làm tôi cốt yếu có hai điều. Trên thì yêu vua, dưới thì yêu dân. Yêu vua phải hết lòng trung, yêu dân phải hết lòng thành”.
Trong một lần khác, vua Lê Nhân Tông chỉ dụ: “Các ngươi là quan tại nhiệm, khi trở về, phải bảo dân gắng sức làm ruộng, xử án phải cho công bằng, nếu có trộm cướp, phải hết lòng lùng bắt, không được thờ ơ lười biếng”.
Và trong Quốc triều hình luật, những chế định trong xã hội được ghi rất rõ; đặc biệt là những điều liên quan đến tội sách nhiễu, bòn rút của dân từ quan chức cho đến thân thích…
Chương Vi chế (làm trái pháp luật) có chép: “Các quan tướng súy tại phiên trấn đến những châu huyện ở trấn mình, sách nhiễu tiền tài của dân thì bị biếm ba bậc, phải bồi thường gấp đôi số tiền trả cho dân.
Quan tôn thất từ nhị phẩm trở lên can tội ấy, xử phạt 100 quan; những người gia thuộc làm việc sách nhiễu để làm rối loạn trong hạt, thì luận tội khác…”; hoặc trong Chương Hộ hôn ghi:
“Những người cai quản dân đinh mà làm bậy nhũng nhiễu thì xử tội bãi chức hay đồ. Tôn thất từ nhị phẩm trở lên thì phải phạt tiền 100 quan; trị tội các thuộc lại trong nhà; truất quyền quản giám”.
Hiệu quả của luật lệ này trong việc xử phạt tội sách nhiễu dân của quan lại được thể hiện trong nhiều trường hợp. Ví như tù trưởng Cầm Quý “bắt dân đóng góp nặng, nói láo là để nộp cống, nhưng thực ra là vơ hết về mình”. Sau bị vua Lê Thái Tông ra lệnh bắt giữ.
Hay năm Đinh Tỵ 1437, ở huyện Thạch Thất (thuộc Hà Nội ngày nay) có Tổng quản Lê Hiệu dựa chức vụ, lấp một nhánh sông làm đất riêng của mình đến nỗi thuyền bè không đi lại được, sau bị Chuyển vận Trần Hiển tâu lên với triều đình để nghị tội…
Năm 1498, vua Lê Hiến Tông lại xuống chiếu: “Quan lại nếu quấy nhiễu, hạch sách dân, theo lợi riêng gây mối tệ, thì dẫu việc bị cáo giác hay không có chứng cớ cụ thể… đều khảo vào loại không xứng chức”.
(còn nữa)
Nguyễn Thành Trung