Phù điêu bằng đá ở Angkor Wat có khắc hình Suryavarman II.
Chân Lạp lần thứ tư đánh Đại Việt
Cuối năm 1135 và năm 1136, các đại thần nhà Lý là Trương Bá Ngọc (Lê Bá Ngọc), Lưu Khánh Đàm, Dương Anh Nhĩ lần lượt qua đời, Mâu Du Đô thì bị bãi chức, triều đình nhà Lý mất đi nhiều trụ cột.
Nhân cơ hội này, chưa nguôi hận, tháng 1 năm Đinh Tỵ 1137, Suryavarman II, lần thứ tư sai tướng Phá Tô Lăng đem quân sang đánh Đại Việt, tấn công Nghệ An.
Mặc dầu sử Việt không ghi chép số lượng quân Chân Lạp, nhưng có thể đoán định quân xâm lược phải có số quân lớn đáng kể, vì hoàng đế Lý Thần Tông phải xuống chiếu sai Thái úy Lý Công Bình đem quân đi đánh.
Lý Công Bình khi đó đang giữ chức Thái úy được cử đi đánh dẹp và chỉ một tháng sau, vừa địch họa lại gặp động đất “nước sông đỏ như máu”, nhưng Thái úy Lý Công Bình cũng đánh tan được quân giặc.
Sử sách không ghi chép gì về việc phong thưởng sau khi thắng trận và về Lý Công Bình, sau đó sử sách cũng không nhắc đến ông. Không rõ ông mất vào năm nào, chỉ biết đến năm 1141 (5 năm sau thắng lợi Chân Lạp lần thứ 4), người giữ chức Thái úy dưới thời vua Lý Anh Tông là Đỗ Anh Vũ.
Về trận đánh quân Chân Lạp tự tan rã
Về phía Chân Lạp, năm 1150, một lần nữa lại đem quân sang đánh Nghệ An, đến núi Vụ Thấp (nay là Vụ Quang) thì tự tan rã. Từ đó Chân Lạp duy trì triều cống Đại Việt đến hết thời nhà Lý.
Sự kiện này diễn ra như sau: thế kỷ thứ 12, Champa vào thời vua Jaya Indravarman (1086 – 1139) đã liên minh với Chân Lạp gây chiến tranh chống lại Ðại Việt.
Sau những lần xâm lược Đại Việt không thành, Suyrayavarman II nghi ngờ Champa, đang liên minh với Ðại Việt, nên tuyên chiến với Chiêm vào năm 1145. Quân đội của Chân Lạp xâm lược Chiêm, chiếm thành Ðồ Bàn, vua Jaya Indravarman mất tích và Suyrayavarman II đặt quyền cai trị ở lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành.
Trước tình hình nguy ngập này, vua Jaya Indravarman VI (1139-1147), thủ lĩnh một tiểu vương quốc Panduranga, nổi dậy chống cuộc xâm lăng của Chân Lạp.
Vua Jaya Harivarman VI (1147-1163) kế tục nghiệp kháng chiến và hoàn toàn thắng lợi năm 1149, giải phóng thủ đô Đồ Bàn và đưa Chiêm Thành thoát khỏi ách thống trị của Chân Lạp.
Trong khoảng thời gian từ 1145 – 1149, Chân Lạp đã cai trị miền bắc Chiêm Thành và như thế đế quốc này tiếp giáp Đại Việt ở phía tây nam. Do Suyrayavarman II phải đối phó với cuộc kháng chiến mạnh mẽ của hai đời vua ở nam Chiêm Thành nên tạm hòa hoãn với Đại Việt.
Năm 1149 thất bại ở Chiêm, vua Suyrayavarman II lại thân chinh đánh Đại Việt vào năm 1150. Lúc bấy giờ vua Lý Anh Tông chỉ mới 10 tuổi, nhưng các quan văn võ vẫn có người giỏi phò tá, trong đó có thái phó Tô Hiến Thành là người từng dẹp được giặc Thân Lợi (1141), Thái sư Mậu Du Đô từng được lệnh vua lo tuần phòng biên giới…Nói chung việc canh phòng của Đại Việt rất cẩn mật.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Canh Ngọ (1450), Đại Định năm thứ 11…mùa xuân, tháng 3, hạn, mùa thu, tháng 7 hạn. Tháng 9, người Chân Lạp cướp châu Nghệ An, đến núi Vụ Thấp gặp nắng nóng ẩm thấp, phần nhiều chết vì lam chướng bèn tự tan vỡ”.
(còn nữa)
TS Nguyễn Thành Hữu