Ích mẫu mọc hoang khắp ba miền, nhiều nhất là phía Bắc nước ta. Cây và hạt đều có vị đắng, cay, tính hơi lạnh, vào kinh Can, Tâm bào, có tác dụng hoạt huyết, thông kinh sáng mắt, ích tinh. Chủ trị: Bệnh kinh nguyệt phụ nữ, chậm kinh, kinh ít không đều, khí hư bạch đới, khó đẻ, bệnh về hậu sản.
Ích mẫu chủ yếu có chứa chất leonurin A và B, tinh dầu, chất mỡ. Ích mẫu tử là hạt cây ích mẫu để làm thuốc nên chọn hạt già phơi khô dùng dần. Hạt ích mẫu tuy giàu dược tính nhưng khó lấy hạt, do vậy thường dùng cả hạt và cây. Ngày dùng từ 10 – 30g.
- Trị kinh nguyệt không đều: Sung úy tử 160g, bạch thược 160g, đan sâm 160g, đương quy 160g, hương phụ 160g, thục địa 160g, xuyên khung 100g. Tán bột và mật ong làm hoàn, ngày uống 16 - 20g.
- Trị có thai mà bị nội nhiệt, phiền táo không yên (gọi là chứng tử phiền): Ích mẫu tử 40g tán bột trộn với nhục táo làm hoàn, to bằng viên đạn lớn, mỗi lần 1 hoàn với nước sắc nhân sâm. Tác dụng: Thanh nhiệt, ích khí, tư âm, sinh tân.
- Trị kinh nguyệt không đều: Đương quy 80g, ích mẫu 320g, mộc hương 80g, xích thược 80g, hương phụ 20g. Tán bột làm hoàn ngày uống 16 - 20g.
- Ích mẫu tử tính nó hoạt huyết, hành khí, có công bổ âm, đàn bà khi có thai và sau khi sinh nở chỉ cậy vào khí huyết mà thôi, vị này có thể làm cho lúc có thai khí huyết không bị trệ, lúc mới sinh khí huyết không bị hư. Thuốc có thể vừa hành vừa bổ.
KIÊNG KỴ: Huyết hư không ứ huyết không dùng, phụ nữ có thai cẩn thận, uống nhiều bị chảy máu.
DS Nguyễn Văn Hào (Nguyễn Tri Phương, Vũng Tàu)