Nhà thờ họ Hồ Phi Tích tại Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Được vua Khang Hy ca ngợi
Năm Đinh Dậu (1717), Hồ Phi Tích được thăng chức Ngự sử Đài Thiêm Đô Ngự sử, lúc nhận chức thì lấy liêm mà răn mình, lấy công mà xử sự, khi xét xử một việc gì cũng lấy lẽ công bằng tránh điều oan khuất, nên được nhiều người tin yêu.
Năm Canh Tý (1720) vua khảo 10 năm khóa tích, Hồ Phi Tích được liệt vào bậc thứ 2, được thăng Lại bộ Thị lang, tước Hầu.
Năm Tân Sửu (1721), ông được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc. Với tài ngoại giao sắc sảo và trí tuệ uyên bác, Hồ Phi Tích đã chứng minh cho vua Khang Hy thấy được nước Nam: Trong thì yên ổn, lễ nhạc thì rõ ràng, đầy đủ, ông được Vua nhà Thanh khen ngợi và trọng thưởng.
Về nước, được thăng chức Lại bộ Tả thị lang, tước Quận công. Bằng trí tuệ, đạo đức của một nhà ngoại giao kiệt xuất, Hồ Phi Tích đã thắt chặt thêm tình nghĩa bang giao giữa nhà Lê và nhà Thanh; là một trong hai sứ thần là người con xuất sắc của dòng họ Hồ ở Quỳnh Đôi được vua Khang Hy ca ngợi.
Năm Ất Tỵ (1725), Hồ Phi Tích lại được cử lên Tuyên Quang, Hưng Hoá gặp viên quan Phái ủy nhà Thanh là Phan Doãn Mẫn, điều tra, khảo sát địa giới.
Trước đó hai châu Vị Xuyên và Thủy Long bị Tổng trấn Vân Nam xâm chiếm, ta trình với Vua nhà Thanh và được nhà Thanh cho quan Ủy sai đến hội khám.
Chuyến đi này, ông kiên trì chứng minh cho quan Ủy sai nhà Thanh thấy được thực chất đây là vùng đất của nước Nam. Nhà Thanh phải chấp nhận trả lại mỏ đồng Tụ Long và cắm lại các mốc biên giới, chấm dứt sự tranh chấp giữa đôi bên.
Năm Đinh Mùi (1727), ông được cử vào Nam phân giải cương giới bờ cõi, sau chuyến đi, được thăng chức Thượng thư Tả Tào. Năm Kỷ Dậu (1729), ông được giao trực tiếp trông coi công việc của Hữu Ty, thu đơn kiện, xét hỏi…
Năm Canh Tuất (1730), được thăng làm Thượng thư bộ Công và ban ân cho một trăm quan tiền.
Năm Quý Sửu (1733), đã 69 tuổi, sức khỏe yếu, ông khẩn khoản xin về hưu, được thăng Binh bộ Thượng thư và tặng lá cờ có đôi câu đối: Chính sự tham gia lo việc nước – Sử kinh giảng giải dạy con vua – Giáp rập ba triều tay trọng lão – Vào ra một buổi bậc danh nho.
Thày đồ xứ Nghệ nổi tiếng Kinh kỳ
Năm Giáp Dần (1734), ông được thăng Thượng thư bộ Hình, cùng năm ông mất, được vua truy tặng Lại bộ Thượng thư – Thiếu bảo và Vua tặng cho thụy hiệu lúc mất là Đoan Cẩn.
Mộ ông an táng tại huyệt cát địa trên đỉnh Hòn Thè (Quỳnh Diễn, Quỳnh Lưu, Nghệ An), năm 1950 con cháu cải táng và đưa hài cốt ông về xây mộ phía sau nhà thờ.
Hồ Phi Tích – danh nhân lịch sử tiêu biểu, làm quan hơn 30 năm, có nhiều cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Ông là vị quan thanh liêm, đức độ, tài cao, giỏi chính sự, sống hết lòng vì dân, vì nước, được giao nhiều chức vụ quan trọng trong triều, làm quan ở nhiều nơi, đến đâu cũng được dân yêu quý.
Ông là một trong bốn Thượng thư có trí tuệ uyên thâm lúc bấy giờ, một trong những thầy đồ xứ Nghệ nổi tiếng kinh kỳ có đông học trò theo học. Con cháu ông đời nối đời khoa bảng, góp phần làm rạng danh dòng tộc họ Hồ Phi làng Quỳnh Đôi.
Sau khi ông mất được rước vào tế ở nhà thánh huyện và rước bài vị vào tòng tự tại Tư Vũ Văn hội bản huyện và bản thôn, nơi tưởng nhớ công ơn những người học hành đậu đạt, có công với dân với nước.
Nhà thờ họ Hồ Phi Tích tọa lạc ở xóm 3, Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An, là một công trình giữ được khá nguyên vẹn kiến trúc cổ kính thời Nguyễn, nơi tôn thờ và tưởng niệm chính Quỳnh Quận công Hồ Phi Tích, phối thờ các phu nhân và hậu duệ Hồ Phi Tự, Hồ Phi Huyền.
(còn nữa)
TS Nguyễn Thành Hữu