Lợn ỉ được nhân bản tại Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương. |
Cứu lợn ỉ khỏi nguy cơ tuyệt chủng
Lần đầu tiên tại Việt Nam, các nhà khoa học của Viện Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) đã nghiên cứu thành công và làm chủ công nghệ nhân bản lợn ỉ từ tế bào soma mô tai (trưởng thành). Ngày 10/3, 4 chú lợn con đã chào đời khỏe mạnh, phát triển tốt từ công nghệ này. Đây là sản phẩm của Đề tài "Nghiên cứu tạo lợn Ỉ bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào soma" thuộc "Chương trình trọng điểm nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020".
Theo TS Phạm Công Thiếu, Viện trưởng Viện Chăn nuôi, các nhà khoa học đã ngày đêm nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức để tổ chức nghiên cứu, ứng dụng và thực hiện thành công công nghệ nhân bản động vật với quy trình tạo dòng "tế bào cho" từ mô tai lợn ỉ sử dụng trong quá trình cấy chuyển nhân tế bào cho và tạo phôi lợn nhân bản.
Công nghệ được lựa chọn là tạo tế bào trứng nhận không có màng sáng (zona pellucida). Ưu điểm của phương pháp này dễ thao tác khi cấy chuyển nhân "tế bào cho", tạo được nhiều phôi trong thời gian ngắn. Mặt khác, việc cấy chuyển phôi lợn 5 - 6 ngày tuổi đã nâng cao tỷ lệ thụ thai từ 24% (ở mức trung bình trên thế giới) lên 61%. Tại Việt Nam, giống lợn ỉ gần như bị tuyệt chủng. Công nghệ áp dụng không phải là mới nhưng đòi hỏi rất cao về những thao tác, kỹ năng làm việc rất khó, ngay cả các phòng thí nghiệm lớn trên thế giới.
Giá trị của giống lợn ỉ
TS Võ Văn Sự, nguyên Trưởng khoa Động vật quý hiếm, Viện Chăn nuôi, người nhiều năm trăn trở “cứu” lợn ỉ trước “họa” tuyệt chủng cho biết, lợn ỉ mang hình thái đặc trưng: Da đen bóng, mặt nhăn, mắt híp, nọng cổ và má chảy sệ, chân thấp, mõm ngắn, bụng sệ quét đất. Lợn nái thường đi chữ bát, mỗi năm chỉ đẻ 2 lứa, mỗi lứa cho 8 - 11 con. Lợn sơ sinh có khối lượng rất thấp, chỉ 0,4kg/con. Nuôi 1 năm tuổi, lợn mới đạt trọng lượng 36 - 45kg/con, 3 năm tuổi đạt 50 - 75kg/con. Tỷ lệ mỡ ở dòng ỉ mỡ lên tới 48% so với thịt xẻ; Ỉ gộc có tỷ lệ mỡ 42%. Tuy vậy, mỡ lợn Ỉ có cấu trúc chủ yếu là acid béo không no, tương tự như dầu ăn thực vật, không làm tăng hàm lượng cholesteron trong máu.
Năm 1969 điều tra số lượng vật nuôi cho thấy cả nước còn 2 triệu con lợn ỉ, thế nhưng đến năm 1990 thì giống lợn ỉ gần như tuyệt chủng.vì giống lợn này quá chậm lớn, nuôi cả năm cũng chưa được nổi 50kg, nên không tranh chấp nổi với các giống lợn “Tây” nuôi 4 tháng đã đạt 80kg. Những năm 1980, khi ngành chăn nuôi nước ta hô hào phong trào “lai kinh tế”, dùng lợn Đại Bạch của Liên Xô phối giống với lợn ỉ tạo con lai F1 cho ưu thế lai. Chương trình ngoại hoá đàn lợn thành công tới mức “tận diệt” nguồn gene nội thuần chủng.
Từ năm 1985, thế giới đã bắt đầu hướng tới việc bảo tồn những giống vật nuôi truyền thống, những chủng giống vật nuôi nào mà số lượng giảm xuống dưới 1000 con thì phải được bảo tồn. Chương trình bảo tồn vật nuôi của Việt Nam được thực hiện muộn hơn, mãi tới năm 1992, nước ta mới bắt đầu công bố đa dạng sinh học, thống kê các giống vật nuôi và triển khai đề án “Bảo tồn nguồn gene vật nuôi quốc gia”. Vào thời điểm đó, các nhà khảo sát đều không tìm thấy lợn ỉ thuần chủng.
Theo các chuyên gia, việc nhân bản vô tính lợn ỉ mở ra một chương mới trong việc bảo tồn các loài vật nuôi bản địa có nguy cơ tuyệt chủng hiện nay. Việc bảo tồn nguồn gene này cực kỳ quan trọng trong phát triển nông nghiệp – chăn nuôi trong tương lai.