Nguyên nhân sinh ra đàm có nhiều thể, có khi do thấp đàm, táo đàm, nhiệt đàm, hàn đàm, phong đàm. Tất cả lấy tiêu đàm làm chủ, hóa đàm làm trọng. Sách nói rằng: “Thấy đàm hãy đừng trị đàm”, tức là, chữa đàm hãy trị tận gốc. Đàm trở ngại thì khí cơ gây nên trở trệ, cho nên sâm là vị thuốc lý khí, điều thông khí cơ, khí thuận thì đàm tiêu... Sách còn nói “khéo chữa đàm là không chữa đàm mà chữa khí. Khí thuận thì toàn thân tân dịch theo khí mà thuận vậy”. Sau đây là một số thể bệnh đàm ở trẻ em.
Nếu bệnh mới bị, người còn khỏe: Phép trị, lý khí hóa đàm, lợi thấp nên dùng bài Nhị trần thang gia giảm: Bán hạ 4g, trần bì 4g, phục linh 4g, cam thảo 2g tán bột, hoặc sắc uống. Công dụng: Táo thấp hóa đàm, lý khí hòa trung. Chủ trị: Đàm ẩm do nhiều đàm, ngực bụng đầy trướng, nôn mửa đầu váng, tim đập mạnh. Bài thuốc dùng rộng rãi, tiêu đàm hòa vị, hòa trung chỉ nôn, tiêu bỉ, tán kết. Trần bì lý khí hóa đàm, khí thuận thì đàm giáng, khí hòa đàm cũng giáng. Đàm do thấp sinh ra, thấp khứ đàm tiêu. Phục linh kiện tỳ lợi thấp. Cam thảo hòa trung.
Gia giảm: Y phương tập giải nói: Bài nhị trần là phương thông dụng trị đàm, nếu phong - đàm gia nam tinh, bạch phụ, tạo giác, trúc lịch; Hàn đàm gia bán hạ, khương trấp; Hỏa đàm gia thạch cao; Thấp đàm gia bạch truật, thương truật; Táo đàm gia qua lâu nhân; Thực đàm gia sơn tra, mạch nha, thần khúc;- Lão đàm gia mang tiêu, chỉ thực; Khí đàm gia hương phụ, chỉ xác; Đàm kết cơ lý gia bạch giới tử.
Phép trị táo đàm
Táo đàm phần nhiều do phế âm bất túc, hư hỏa thiêu đốt phế kim, dịch thành đàm. Táo đàm trên lâm sàng thường biểu hiện ho rũ, khi súc khạc không lợi, đàm nhiều mà dính, thậm chí thành từng khối, cuống họng khô ráo, đau, ho nhiều khản tiếng. Nên nhuận khí hóa đàm, thường dùng các vị thuốc bối mẫu, qua lâu, hoa phấn, cát cánh, phục linh, nhuận táo hóa đàm chữa chứng táo đàm. Sau đây là một số bài thuốc cổ phương thường dùng chữa trẻ táo đàm.
Nếu bệnh mới bị, ho khan, người nóng, đàm dính. Phép trị, nhuận phế, hóa đàm, nên dùng bài Bối mẫu qua lâu tán gia giảm: Bối mẫu 4g, qua lâu 4g, thiên hoa phấn 4g, phục linh 4g, trần bì 4g, cát cánh 4g sắc uống. Công dụng nhuận phế hóa đàm, chủ trị phế táo có đàm khạc, đàm không lợi, họng khô, miệng ráo, đau, khi bốc lên suyễn súc.
Phép trị nhiệt đàm
Nguyên nhân nhiệt đàm phần nhiều do tà thịnh ở trên. Trong không được thanh giải, hun đốt tân dịch uất mà sinh thành đàm, để lâu hóa đàm hỏa. Người bệnh khạc ra sắc vàng và nhiều, mặt đỏ phiền nhiệt, mạch sác miệng khô, hoặc hoảng hốt sợ hãi. Thuốc thường dùng vị đắng, hàn thanh nhiệt cùng các vị thuốc hóa đàm như hoàng cầm, hoàng liên, đại hoàng, chỉ thực, qua lâu, trúc lịch. Sau đây là một số bài thuốc cổ phương thường dùng chữa trẻ em nhiệt đàm.
Nếu bệnh khạc ra đàm sắc vàng và nhiều: Phép trị, thanh nhiệt hóa đàm, nên dùng bài thanh khí hóa đàm hoàn gia giảm. Trần bì 12g, hạnh nhân 12g, chỉ thực 8g, hoàng cầm 10g, qua lâu 12g, phục linh 12g, đởm tinh 6g, bán hạ 4g tán nhỏ dùng dần. Công dụng thanh nhiệt hóa đàm, hạ khí chỉ khái. Chủ trị đàm nhiệt nội kết, ho đàm màu vàng như cao mà dính, có khi nôn, hung cách bỉ mãn, hoặc phát nhiệt, hoặc hoảng hốt sợ hãi. Hoàng cầm, qua lâu thanh nhiệt hóa đàm. Trần bì, chỉ thực hành khí phá kết. Hạnh nhân thuận khí, tiêu đàm. Đởm tinh, bán hạ tiêu đàm. Thuận khí thanh nhiệt hóa đàm, vì khí thuận thì hỏa tụ giáng, nhiệt thanh thì đàm tự tiêu, đàm tiêu thì hỏa không còn chỗ dựa, mọi chứng đều giảm.
Lương y Nguyễn Văn Sáu (TT Y tế Bà Rịa)