Chán ăn và sụt cân, đi khám phát hiện mắc 2 loại ung thư

Sụt 4kg trong 1 tuần và không có biểu hiện bệnh, người đàn ông 64 tuổi đi khám phát hiện mắc cả: Ung thư phổi không tế bào nhỏ và ung thư đường mật tuýp ống nhỏ. Người dân nên biết về loại đa ung thư nguyên phát.

Bệnh nhân nam N.X.T., 64 tuổi, Bắc Giang, cách vào viện 1 tuần, bệnh nhân thấy chán ăn, sút 4 kg/1 tuần, không khó thở, không ho, không đau ngực, không đau bụng, đại tiểu tiện bình thường.

Bệnh nhân khám tại Khoa khám bệnh - Bệnh viện Bạch Mai, chụp cắt lớp vi tính lồng ngực phát hiện khối, nốt ở nhu mô phổi và khối nhu mô gan và được chuyển đến Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu.

Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng tỉnh táo,thể trạng trung bình (Chiều cao: 1,67m; Cân nặng: 58kg=> BMI: 20,8); Mạch: 98 chu kỳ/phút; Huyết áp: 120/80 mmHg; Da niêm mạc hồng, không phù, không xuất huyết dưới da; Tuyến giáp không to, hạch ngoại vi không sờ thấy; Tim đều, T1 T2 rõ, không có tiếng tim bệnh lý; Phổi không rale. Bụng mềm, không chướng.

Tiền sử bệnh nhân có: Viêm gan B không điều trị; Xuất huyết dạ dày cách 15 năm điều trị nội khoa đã ổn định; Không tăng huyết áp, đái tháo đường; Thói quen, sinh hoạt; Hút thuốc lá 23 bao/năm, đã bỏ; Uống rượu 500ml/ngày.Nghề nghiệp tiếp xúc với amiăng, thuốc trừ sâu. Gia đình: Bố đẻ mắc ung thư gan.

Xét nghiệm cận lâm sàng: Huyết học: Hồng cầu: 4.25 T/L (giảm nhẹ); Bạch cầu: 8.0 G/L (trong giới hạn bình thường); Tiểu cầu: 113 G/L (giảm nhẹ)

Hóa sinh máu: Albumin: 37.1 g/L; ALT: 30 U/L (trong giới hạn bình thường); AST: 41 U/L (tăng nhẹ), Billirubin toàn phần: 9.2 μmol/L, Billirubin trực tiếp: 4.2 μmol/L (trong giới hạn bình thường).

Đông máu: Pt(s): 12.2s; Pt(%): 88%; INR: 1.11 (trong giới hạn bình thường)...

Nhu mô hạ phân thùy VII có vài khối, nốt kích thước lớn nhất 33x26mm giảm tỷ trọng trước tiêm, ngấm thuốc thì động mạch (vòng tròn đỏ), thải thuốc thì tĩnh mạch cửa (vòng tròn) - Ảnh BVCCNhu mô hạ phân thùy VII có vài khối, nốt kích thước lớn nhất 33x26mm giảm tỷ trọng trước tiêm, ngấm thuốc thì động mạch (vòng tròn đỏ), thải thuốc thì tĩnh mạch cửa (vòng tròn) - Ảnh BVCC

Kết quả xét nghiệm và chiếu chụp chẩn đoán xác định: bệnh nhân mắc hai loại ung thư: ung thư phổi không tế bào nhỏ và ung thư đường mật tuýp ống nhỏ.

Cụ thể: bệnh nhân bị ung thư phổi trái không tế bào nhỏ di căn phổi EGFR (+), giai đoạn IV cT3N0M1 - Ung thư đường mật tuýp ống nhỏ di căn hạch rốn gan, giai đoạn IIIB cT2N1M0 / Viêm gan B.

Bệnh nhân được chỉ định điều trị theo phác đồ gemcitabine-cisplatin: Gemcitabine 1250mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1,8; Ciplastin 80mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1. Chu kì: 21 ngày.

Bệnh nhân đang được tiếp tục theo dõi và điều trị tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai theo hướng đa ung thư nguyên phát.

Theo Liên minh phân loại theo độ tuổi quốc tế (IARC), đa ung thư nguyên phát được định nghĩa có nhiều hơn một loại ung thư với nguồn gốc mô bệnh học khác nhau xuất hiện không phụ thuộc thời gian trên cùng một người bệnh. Tỉ lệ mắc đa ung thư nguyên phát trên thế giới trong khoảng 2.4 - 17.2%.

Những tiến bộ trong sàng lọc và chẩn đoán làm tăng khả năng phát hiện đa ung thư nguyên phát trên người bệnh ở mọi giai đoạn. Dựa vào thời gian phát hiện ung thư nguyên phát thứ hai trở đi so với loại đầu tiên, có thể chia chúng làm 2 loại: đồng thời (synchronous) và liên tiếp (metachronous).

Khối u kích thước 51x58x42mm thùy trên phổi trái, ngấm thuốc không đều sau tiêm (vòng tròn đỏ).Khối u kích thước 51x58x42mm thùy trên phổi trái, ngấm thuốc không đều sau tiêm (vòng tròn đỏ).

Tiên lượng bệnh đa ung thư nguyên phát phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vị trí khối u, giai đoạn bệnh, thời gian giữa chẩn đoán ung thư nguyên phát đầu tiên và tiếp theo. Chưa có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ tử vong giữa đơn và đa ung thư nguyên phát.

Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều thách thức trong việc điều trị nhiều loại ung thư nguyên phát trên cùng cá thể. Với thể đồng thời, cần phải lựa chọn phương pháp điều trị vào tất cả các loại ung thư mà không tăng độc tính hay tác động xấu lên người bệnh.

GS. TS Mai Trọng Khoa, PGS.TS Phạm Cẩm Phương, Ths.Bs. Hoàng Công Tùng (Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu, bệnh viện Bạch Mai )

Theo Đời sống
back to top