Cẩn thận thủy đậu mùa xuân gây biến chứng gan, thận

(khoahocdoisong.vn) - Thủy đậu dễ bùng phát thành dịch vào mùa xuân. Bệnh rất dễ lây vì khi một người mang virus thủy đậu nói, hắt hơi (nhảy mũi) hoặc ho... thì các siêu vi đó theo nước bọt, nước mũi bắn ra ngoài tan thành bụi. Người khác hít phải bụi đó sẽ lây bệnh ngay.

Lây lan ở cả trẻ em và người lớn

Thủy đậu còn gọi là phỏng dạ hay trái rạ, là một bệnh truyền nhiễm do virus Varicella zoster gây ra và thường bùng phát thành dịch vào mùa xuân. Thông thường, từ lúc nhiễm phải virus, đến lúc phát bệnh khoảng 2 – 3 tuần. Bệnh xảy ra phần nhiều ở trẻ em, nhưng cũng không ít người lớn mắc bệnh này và thường có các triệu chứng chóng mặt, sốt nhẹ, khắp người nổi mụn đó là các mụn bóng nước giữa các nến đỏ. Những mụn bóng nước này thường mọc ở thân mình, sau đó lan lên mặt và tay chân. Mụn bóng nước lúc đầu chứa một chất dịch trong, nhưng chỉ sau khoảng 1 ngày dịch đó trở nên đục như mủ. Sau 2 – 3 ngày nữa, các mụn sẽ đóng vẩy. Các vẩy đó sẽ rụng dần và nếu không có biến chứng thì bệnh có thể khỏi sau 1 – 2 tuần và không để lại sẹo.

Đặc điểm của các mụn nước đó là chúng mọc làm nhiều đợt khác nhau. Do đó, cùng trên một vùng da, có thể thấy nhiều dạng khác nhau như dát đỏ, hoặc mụn nước trong, mụn nước đục, mụn đóng vẩy... trong cùng một thời gian. Cũng do thời gian tiến triển của bệnh tương đối ngắn, nên một số người đã cho thủy đậu là một bệnh nhẹ, hoàn toàn không nguy hiểm.

Nhiều biến chứng nguy hiểm          

Tuy thủy đậu nói chung không nguy kịch như một số bệnh nặng khác, nhưng cũng đã không ít lần gây biến chứng nguy hiểm cho người bệnh, nhất là với trẻ nhỏ. Cụ thể, một số trẻ đã bị xuất huyết ở các mụn thủy đậu, bệnh trở thành một thể "thủy đậu xuất huyết" rất trầm trọng. Một số trẻ khác bị bội nhiễm thêm các vi khuẩn khác. Các vi khuẩn này vào các mụn thủy đậu, làm sưng to lên, nhiều khi lại gây ngứa. Trẻ không chịu được, gãi toác da, và từ đó để lại những vết sẹo rất xấu. Trong một số trường hợp, các virus từ các mụn thủy đậu lại xâm nhập ồ ạt vào máu, gây ra nhiều bệnh ở cơ quan khác, như viêm thận, viêm gan...  Nghiêm trọng nhất là nhiễm khuẩn huyết có thể gây chết người.

   Ngoài ra còn có chứng viêm phổi do thủy đậu, tuy ít khi xảy ra hơn, nhưng nếu bị thì rất nặng và khó trị. Chứng viêm não do thủy đậu cũng có thể xảy ra với triệu chứng trẻ bỗng trở nên vật vã, quờ quạng chân tay, nhiều khi kèm theo co giật, hôn mê. Những trường hợp này có thể gây chết người nhanh chóng, và một số trẻ tuy qua khỏi được vẫn mang di chứng thần kinh như điếc, thiểu năng, động kinh ...

Còn có một thể thủy đậu đặc biệt, gọi là thủy đậu bẩm sinh, đó là những trẻ khi mới sinh ra đã có một số tổn thương ngoài da giống như thủy đậu, nhưng tai hại hơn nữa lại có kèm theo một số dị tật như teo cơ ở chân tay, bệnh ở mắt (bệnh "đục thủy tinh thể", có thể gây mù), thiểu năng ... Nguyên nhân là do bà mẹ đã bị thủy đậu trong lúc mang thai, và bệnh đã xảy ra trong 6 tháng đầu của thai kỳ. 

Do đó, không thể coi thường thủy đậu. Bởi vậy khi phát hiện bệnh nên đi khám ngay, không được tự ý dùng thuốc hoặc nghe lời mách bảo mà dùng thuốc sai lầm. Đã có không ít những trẻ bị thủy đậu bội nhiễm rất nặng, do đã đắp các loại lá, hoặc rắc các thuốc bột bán trôi nổi tại các góc chợ, vỉa hè. Lại có trẻ được gia đình cho uống corticoid rất nguy hiểm vì sẽ làm bệnh nặng lên rất nhanh.

Khi điều trị tại nhà, nên nằm nghỉ trong phòng thoáng mát, sạch sẽ, ăn các chất dễ tiêu. Có thể dùng một số thuốc chống ngứa và an thần theo chỉ định của bác sĩ, cố tránh gãi. Cắt ngắn móng tay hay đi bao tay. Mặc quần áo dài để che kín các nốt thủy đậu, tránh để ruồi muỗi đậu vào. Dùng thêm kháng sinh, nếu có chỉ định của thầy thuốc. Ngoài việc giữ vệ sinh, tránh nước và gió cho các cháu khi đã mắc bệnh, việc tiêm chủng là biện pháp phòng hữu hiệu nhất.

            BS Hoàng Xuân (Bộ Y tế)

Theo Đời sống
Trời lạnh đề phòng liệt mặt, méo miệng

Trời lạnh đề phòng liệt mặt, méo miệng

Bệnh liệt mặt, méo miệng xảy ra là do khi cơ thể bị lạnh làm co thắt mạch nuôi dây thần kinh số 7 gây ra tình trạng thiếu máu cục bộ, phù và chèn ép dây thần kinh ở đoạn trong ống Fallope của người bệnh.
back to top