Thận bị phá hủy bởi tăng lọc của cầu thận
Cho đến nay, cơ chế tổn thương thận do ĐTĐ còn chưa rõ. Có giả thuyết cho rằng tổn thương thận là hậu quả của glucose máu lâu dài. Cũng có giả thuyết khác cho rằng đó là hậu quả của một số rối loạn chuyển hóa đã khởi phát quá trình tổn thương ở thận. Nhiều nghiên cứu cho thấy, yếu tố gen cũng có vai trò trong phát triển bệnh lý cầu thận. Các rối loạn chuyển hóa khởi đầu cho các đáp ứng bệnh lý ĐTĐ trên cơ sở các tổn thương xơ hóa tiểu cầu thận do bệnh lý gen. Cũng có giả định rằng các tổn thương gen này có liên quan đến bệnh tăng huyết áp vô căn có tính gia đình.
Tuy nhiên, chỉ một thời gian ngắn sau khi mắc bệnh ĐTĐ, tỷ lệ lọc cầu thận và lưu lượng máu đến thận đều tăng. Để thích ứng, thận tất yếu phải tăng cả về trọng lượng và kích thước. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, tăng tỷ lệ lọc máu ở thận có liên quan đến nồng độ glucose máu và tỷ lệ này giảm xuống khi glucose máu được kiểm soát tốt.
Kiểm soát tốt đường huyết giúp thận khỏe
Lượng cretinin và ure có thể được giảm nhẹ vì có sự tăng của khối lượng thận. Cũng nên lưu ý, do hiện tượng tăng lọc nên có thể có protein niệu thoáng qua. Hiện tượng này mất đi sau khi điều chỉnh tốt glucose máu. Ở giai đoạn sớm hình thái của thận vẫn bình thường mặc dù thận có thể bị phì đại (về kích thước). Khi có tổn thương tăng sinh tế bào gian mạch và dày màng đáy, có thể đã có ảnh hưởng đến tỷ lệ lọc cầu thận, dòng máu đến thận tăng nhưng vẫn không có protein niệu. Khi nồng độ albumin >30mg/24 giờ hoặc > 20µg/phút được xem là có protein vi thể – microalbumin. Ngày nay người ta cho rằng đây là dấu hiệu sớm nhất của tổn thương thận.
Có nhiều yếu tố có thể làm tăng lượng microalbumin niệu như kiểm soát gluocse máu kém, người bệnh bị các stress, bị nhiễm trùng hoặc do chế độ ăn tăng protit, do tăng luyện tập thể lực… Vì thế, khi được chẩn đoán xác định có microalbumin niệu dương tính cần phải loại bỏ các yếu tố này. Thận trọng hơn người ta thường phải làm lại nhiều lần trước khi kết luận. Ngày này, người ta coi microalbumin niệu là một test sàng lọc để tiến hành sớm các thăm dò, chẩn đoán bệnh lý mạch máu nhỏ. Khi đã có microalbumin niệu dương tính, nguy cơ bệnh lý tim mạch tăng lên rất đáng kể.
Ngay khi đã có protein niệu, tỷ lệ lọc cầu thận có thể vẫn tăng; tỷ lệ này sẽ giảm khoảng 50% sau 3 năm có protein niệu. Thông thường lúc này creatinin máu sẽ tăng trên 2mg/dl (>177,0 mmol/l) và ure máu sẽ vượt trên 40mg/dl (6,7mmol/l). Ở giai đoạn này thông thường có khoảng 50% số người bệnh tiến triển tới suy thận giai đoạn cuối.
Kiểm soát tốt đường máu, thận chậm tổn thương
Những yếu tố tham gia cải thiện tiên lượng bệnh là hạ thấp nồng độ LDL-c (mỡ máu xấu) và tăng nồng độ HDL-c (mỡ máu tốt), thực hiện có kết quả liệu pháp chống tăng huyết áp, không hút thuốc lá; phối hợp chế độ ăn, dùng thuốc đa trị liệu và luyện tập thể lực có kế hoạch.
Cho đến nay người ta vẫn chưa tìm thấy mối liên quan giữa bệnh lý võng mạc, thần kinh, tăng huyết áp với bệnh lý thận của người ĐTĐ trong giai đoạn sớm, còn ở giai đoạn bệnh thận tiến triển thì tổn thương của bệnh lý thận sẽ là song song với các rối loạn trên. Kiểm soát tốt glucose máu có thể làm chậm tổn thương của thận (microalbumin dương tính chẳng hạn). Ở giai đoạn tăng lọc của cầu thận nếu kiểm soát tốt glucose máu, thận sẽ có thể phục hồi.
PGS.TS Tạ Văn Bình (Nguyên giám đốc Bệnh viện Nội tiết TƯ)