Việt Nam đối mặt với mức sinh thay thế thấp: Được quyết định số con

21 tỉnh, thành phố có mức sinh thấp; thậm chí một số địa phương có mức sinh rất thấp... mang lại nhiều hệ lụy.

TS Lê Thanh Dũng cho biết, 30 thực hiện Chương trình hành động về Dân số và Phát triển, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, như tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế thành công, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng từ 2007;

Tuổi thọ trung bình tăng nhanh, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh.

Tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Dân số đã có sự phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Công tác tuyên truyền, giáo dục, nhận thức về dân số và kế hoạch hóa gia đình của các cấp, các ngành và toàn dân có bước đột phá...

Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức, trong đó có mức sinh thay thế thấp.

Việt Nam đối mặt với mức sinh thay thế thấp: Được quyết định số con ảnh 1

Việt Nam đối mặt với mức sinh thay thế thấp: Được quyết định số con

21 tỉnh thành có mức sinh thấp

Mức sinh thay thế là mức sinh trung bình của người phụ nữ trong toàn bộ cuộc đời của mình sinh đủ số con để thay mình thực hiện chức năng sinh đẻ và duy trì (nòi giống).

Việt Nam đạt mức sinh thay thế từ năm 2006 và tổng tỷ suất sinh (TFR) được duy trì ở mức 2,0 - 2,1 con/phụ nữ trong suốt thời gian qua. Song từ năm 2020 đến nay, đã xuất hiện xu thế mức sinh xuống thấp tại các tỉnh, thành phố phía nam, làm mức sinh của toàn quốc năm 2023 xuống còn 1,96 con/phụ nữ, thấp nhất trong lịch sử và được dự báo là sẽ tiếp tục giảm.

Khi tổng tỷ suất sinh là 2,1 con/phụ nữ, sẽ được coi là đạt mức sinh thay thế. Khi mức sinh thấp, ảnh hưởng suy giảm quy mô dân số, cơ cấu tuổi của dân số trong tương lai, suy giảm nhóm dân số trong độ tuổi lao động; tác động mạnh vào quá trình di cư, tăng nhanh quá trình già hóa dân số, mất cơ hội tận dụng cơ cấu dân số vàng…

Hiện nay mức sinh giữa các vùng, miền đang có sự chênh lệch đáng kể. 21 tỉnh, thành phố có mức sinh thấp; thậm chí một số địa phương có mức sinh rất thấp, tập trung ở khu vực Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải miền trung.

Vùng Đông Nam Bộ là khu vực có tỷ lệ giảm sâu: năm 1999 vùng này vẫn còn tỷ lệ một phụ nữ sinh 2,9 con thì hiện nay giảm xuống chỉ còn 1,56 con. Mức sinh thấp không chỉ diễn ra ở một số đô thị, nơi có điều kiện kinh tế phát triển mà còn xuất hiện ở nhiều tỉnh có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn như ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nơi chiếm vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an ninh quốc gia về lương thực.

Các tỉnh có mức sinh thấp chiếm khoảng 39,4% dân số cả nước, sẽ tác động rất lớn đến quá trình phát triển bền vững đất nước.

Không chỉ mức sinh thay thế thấp, việc mất cân bằng giới tính khi sinh cũng là hệ lụy - Ảnh minh họa

Không chỉ mức sinh thay thế thấp, việc mất cân bằng giới tính khi sinh cũng là hệ lụy - Ảnh minh họa

Những hệ luỵ do mức sinh thay thế giảm

Mức sinh là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tốc độ tăng dân số, quy mô dân số cũng như cơ cấu dân số tại một quốc gia. Nếu mức sinh quá cao so với mức chết sẽ dẫn đến quy mô dân số tăng quá nhanh, tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Ngược lại, nếu mức sinh quá thấp và kéo dài sẽ tác động trực tiếp, sâu sắc tới cơ cấu dân số và để lại nhiều hệ lụy, thể hiện ở những điểm lớn sau: Một là sự thiếu hụt nhóm dân số trong độ tuổi lao động; hai là gia tăng tốc độ già hóa, số lượng và tỷ trọng người cao tuổi; ba là làm suy giảm quy mô dân số và tăng trưởng âm về dân số. Những yếu tố này đều có tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

Cục trưởng Lê Thanh Dũng nhấn mạnh, dân số Việt Nam đang ở giai đoạn chuyển từ "mức sinh thay thế" sang xu hướng "mức sinh thấp", từ mô hình "sinh sớm" sang mô hình "sinh muộn", từ "mức chết cao" sang "mức chết thấp", từ cơ cấu "dân số trẻ" sang giai đoạn "già hoá dân số" và chuyển sang "dân số già". Xu hướng mức sinh giảm, ngoài tác động về quy mô dân số còn dẫn đến tỷ trọng trẻ em dưới 15 tuổi giảm, tỷ trọng người già tăng lên.

Hiện nay, Việt Nam vẫn đang ở trong quá trình già hóa dân số và là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Trong khi các nước phát triển mất nhiều thập kỷ, có nước hàng thế kỷ mới chuyển đổi từ giai đoạn già hóa dân số sang giai đoạn dân số già nhưng ở Việt Nam chỉ khoảng 26 năm.

Nếu như năm 2009, cứ khoảng 3 trẻ em dưới 15 tuổi mới có 1 người từ 60 tuổi trở lên thì đến năm 2019 cứ khoảng 2 trẻ em dưới 15 tuổi đã có 1 người 60 tuổi trở lên, theo đó, khi mức sinh giảm càng làm thúc đẩy nhanh chóng quá trình già hóa dân số ở nước ta.

Như vậy, nếu mức sinh tiếp tục giảm thì tương lai lực lượng trong độ tuổi lao động sẽ giảm, trong khi tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng nhanh dẫn đến tỷ trọng dân già sẽ chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng dân số và Việt Nam sẽ có cơ cấu dân số già.

Các cặp vợ chồng có thể tự quyết định số con

Các cặp vợ chồng có thể tự quyết định số con

Cặp vợ chồng có quyền quyết định về số con

Để giải quyết thách thức này về mức sinh thay thế, theo ông Dũng, năm 2023, Bộ Y tế đã xây dựng, trình Chính phủ đề nghị xây dựng Luật Dân số, Chính phủ có Tờ trình số 47/TTr-CP ngày 28/02/2023 gửi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023.

Căn cứ ý kiến thẩm tra, Bộ Y tế được giao tiếp thu, giải trình, chỉnh lý, hoàn thiện Hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật Dân số, báo cáo Chính phủ; dự kiến trình Quốc hội trong năm 2025.

Một trong những chính sách cơ bản của Luật Dân số là "Duy trì mức sinh thay thế" với mục tiêu chính sách bao gồm: Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con) trong phạm vi cả nước, nhằm ổn định quy mô dân số vào giữa thế kỷ XXI; khắc phục tình trạng chênh lệch đáng kể mức sinh giữa các vùng, đối tượng; Quy định quyền, nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc sinh con; bảo đảm thực hiện quyền con người trong thực hiện chính sách dân số.

Để thực hiện mục tiêu chính sách, các giải pháp dự kiến được đề xuất bao gồm: Các biện pháp điều chỉnh mức sinh trên phạm vi toàn quốc; các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích người dân sinh đủ hai con tại các tỉnh, thành phố thuộc vùng mức sinh thấp; tiếp tục thực hiện các chính sách, biện pháp giảm sinh tại các tỉnh, thành phố thuộc vùng có mức sinh cao;

Quy định các cặp vợ chồng, cá nhân có quyền quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh; được cung cấp thông tin, tiếp cận, lựa chọn, sử dụng các biện pháp kế hoạch hoá gia đình. Cặp vợ chồng, cá nhân có nghĩa vụ thực hiện chính sách, pháp luật về dân số; bảo đảm trách nhiệm chăm sóc và nuôi dạy con tốt.

Lý do lựa chọn giải pháp, thứ nhất, thể chế hóa mục tiêu Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội Nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới; tạo cơ sở pháp lý thực hiện các giải pháp điều chỉnh mức sinh tại các vùng có mức sinh khác nhau nhằm duy trì vững chắc mức sinh thay thế;

Thứ hai, khắc phục tình trạng chênh lệch đáng kể mức sinh giữa các vùng, đối tượng; tình trạng người ít có điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng con còn đẻ nhiều, ảnh hưởng đến chất lượng dân số;

Thứ ba, tránh tình trạng mức sinh xuống quá thấp, khó vực lên như kinh nghiệm của một số quốc gia, gây già hoá trầm trọng, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội;

Thứ tư, bảo đảm quyền con người, phù hợp với Hiến pháp; tương thích với các điều ước quốc tế liên quan đến dân số mà Việt Nam là thành viên; phù hợp với các cam kết chính trị của Việt Nam và tạo tác động tốt với dư luận quốc tế.

Theo Đời sống
back to top