Đền thờ Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ, thân mẫu của Quận Ai vương Tư Tề.
Làm con tin trong trại giặc
Quận Ai vương Tư Tề là con trưởng của Lê Lợi (Lê Thái Tổ) và bà Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ. Lê Tư Tề sinh vào khoảng năm 1403, lúc nhỏ ông được cha giao cho Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn dạy văn, dạy võ và ông đã sớm bộc lộ tài năng.
Tư Tề theo vua (Lê Lợi) đi đánh giặc, tính dũng cảm ham giết giặc. Năm Thiên Khánh thứ nhất, thời Trần Cảo (1426) được trao chức Thị Trung. Tháng 6 mùa hạ năm Đinh Mùi (1427) gia phong thêm chức Tư đồ, Đại Tư mã Lê Nhân Chú (Lưu Nhân Chú) làm Tư không, Thiếu úy Lê Vấn, Lê Sát làm Tư mã, Lê Bối làm Thiếu úy và răn họ rằng: “Chức tước đã cao, sớm khuya chớ có lơ là, thảo mãn mà sao nhãng lập công”.
Ngày 22 tháng 11, vua sai Tư đồ Tư Tề và Lê Nhân Chú vào thành Đông Quan làm con tin với quân Minh để thực hiện hòa ước với Vương Thông, tháng 12 trở về triều.
Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân 1428, Lê Lợi chính thức lên ngôi vua tại điện Kính Thiên, xưng là Thuận Thiên thừa vận Duệ Văn Anh Vũ Đại vương, sắp đặt lại triều chính rồi ban chiếu phong Tư Tề làm Quốc vương.
Lê Quý Đôn viết: “Vua sai Nhập nội kiêm hội Bình chương sự Lê Vấn, Đại Tư mã Lê Ngân và Thiếu phó Lê Văn Linh truyền tờ kim sách dựng con trưởng Hữu tướng quốc Khai Quận công Tư Tề làm Quốc vương, được tạm coi việc trong nước, lại sai Tư khấu Lê Sát, Tư không Lê Nhân Chú, Tư mã Lê Lý và Thiếu úy Lê Quốc Hưng tuyên đọc tờ kim sách lập con thứ Lương quận công Lê Nguyên Long làm Hoàng Thái tử”.
Tạm coi việc nước
Vua ban chiếu rằng: “Đạo kinh luân thiên hạ, phải tính ban đầu để yên lúc cuối, phải lập pháp luật để lưu về sau. Thế cho nên cha làm con nối, đạo nhà rất hanh thông, anh truyền em tiếp, nền nước sẽ vững bền. Các bậc vua giỏi thời xưa lo tính việc rất sâu xa.
Trẫm thân mặc áo giáp, dầu dãi tuyết sương, 13 năm trời kể cũng khó nhọc. Nay trí lực kém dần, tuổi cũng đã cao mà việc nước rất nhiều, khó lòng một mình liệu lý. Như Tư Tề (con trưởng) hiện đã khôn lớn, vào hạng thành nhân. Tuy liệu việc chưa thật chu đáo tinh vi cho lắm, nhưng mắt thấy tai nghe, cũng đã từng trải qua nhiều việc. Hãy cho tạm coi việc nước, để giúp đỡ trẫm.
Nguyên Long (con thứ) tính tuy minh mẫn, nhưng tuổi còn non, hãy nên nuôi dưỡng dự trữ trong Thanh Cung, chờ ngày đức tính đầy đủ. Khi nào Tư Tề lên ngôi chính thức, thì lúc ấy Nguyên Long lại coi việc nước, việc quân…
Sau đây, hoặc có kẻ nào không nghe lời trẫm, bàn luận trái lại… thay đổi phép trong tờ chiếu này, thì kẻ ấy chỉ là phường xẩm nịnh, chực đem mưu gian để tính kế Vương Mãng và Tào Tháo chứ không phải tận trung với nước, pháp luật tất không tha…”.
Hôm sau vua chỉ huy cho văn võ bá quan và các phủ, lộ, huyện, châu, trấn, hễ ai có việc gì đến trình bày với Quốc vương và Hoàng Thái tử thì dùng chữ “khải”, không được dùng chữ “tấu”, và xưng hô là “Quốc vương điện hạ”, “Thái tử điện hạ”. Nếu Quốc vương có tuyên cáo hiệu lệnh thì dùng chữ “Quốc vương chỉ huy”, không được dùng chữ “sắc”.
Năm thứ 5 (1432) vua sai Quốc vương Tư Tề đem quân đi đánh châu Phục Lễ, bức hàng tù trưởng châu ấy là Đèo Cát Hãn và con y là Đèo Mạnh Vượng, rồi đem quân về. Lúc bấy giờ nhà vua nhiều bệnh, chính sự lớn của nhà nước đều giao cho Vương quyết định.
(còn nữa)
Trịnh Dương