Chất sắt: Sắt là thành phần của huyết sắc tố, tham gia vào quá trình vận chuyển oxy và là thành phần quan trọng của hemoglobin. Sắt trong cơ thể cùng với protein tạo thành huyết sắc tố (hemoglobin), vận chuyển oxy, CO2, phòng bệnh thiếu máu và tham gia vào thành phần các men oxy hóa khử. Nhu cầu sắt của trẻ vị thành niên được đáp ứng thông qua chế độ ăn giàu sắt, sắt có giá trị sinh học cao. Tuy nhiên, ở nước ta khả năng được tiếp cận các nguồn thức ăn động vật có lượng sắt giá trị sinh học cao từ khẩu phần là rất thấp. Vì vậy, ngay từ khi bước vào tuổi vị thành niên cần uống bổ sung thêm viên sắt hoặc viên đa vi chất hàng tuần. Nhu cầu sắt của trẻ vị thành niên là 12-18mg/ngày/trai và 20 mg/ngày/gái. Thức ăn giàu sắt có nguồn gốc động vật như thịt bò, tiết bò, trứng gà, trứng vịt, tim lợn, gan gà.
Vitamin A: Cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển bình thường, tăng cường khả năng miễn dịch giảm tỷ lệ nhiễm trùng và tử vong. Vitamin A có trong thức ăn động vật như gan, trứng, sữa. Ngoài ra thức ăn thực vật cung cấp nguồn caroten như rau xanh, gấc, quả màu vàng. Nhu cầu vitamin A lứa tuổi vi thành niên là 600mcg/ngày.
Canxi: Cần thiết cho lứa tuổi dậy thì vì giai đọan này tốc độ phát triển chiều cao rất nhanh, nhu cầu canxi nhiều, cơ thể cần canxi cùng với photpho để duy trì và hình thành bộ xương, răng vững chắc. Canxi có nhiều trong sữa, các loại thủy, hải sản. Nhu cầu vitamin D tuổi vị thành niên là 5 mcg/ngày.
Vitamin C: Vitamin C giúp hấp thu và sử dụng sắt, canxi và axit folic. Ngoài ra vitamin C còn có chức năng chống dị ứng, tăng khả năng miễn dịch, kích thích tạo dịch mật, bảo vệ thành mạch. Vitamin C có nhiều trong các loại rau xanh, quả chín. Nhu cầu vitamin C tuổi vị thành niên là 65mg/ngày.
Chế độ dinh dưỡng lứa tuổi vị thành niên là yếu tố quyết định để trẻ phát triển cả về chiều cao, cân nặng và phát triển đạt mức tối ưu khi trưởng thành. Khi trưởng thành có sức khỏe và tình trạng dinh dưỡng tốt (cân nặng và chiều cao đạt mức tối ưu) là điều kiện để trở thành các ông bố, bà mẹ sau này sinh ra những đứa trẻ khoẻ mạnh trong tương lai.
ThS. BS. Nguyễn Văn Tiến
(Trung tâm Giáo dục Truyền thông dinh dưỡng)