Tượng Thiền sư Vạn Hạnh.
Tiên đoán thắng bại cho Lê Đại Hành
Theo “Thiền uyển tập anh”, Vạn Hạnh(938 – 1025) “ họ Nguyễn quê làng Cổ Pháp (thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), gia đình đời đời thờ Phật; thuở nhỏ đã thông minh khác thường, học khắp Tam Giáo và nghiên cứu Bách Luận, mà vẫn xem thường công danh phú quý.
Năm 21 tuổi Sư theo Thiền sư Định Tuệ xuất gia và thọ học với Thiền ông Đạo Giả ở chùa Lục Tổ làng Dịch Bảng phủ Thiên Đức. Ngoài lúc hầu hạ, Sư chăm chỉ học tập quên cả mỏi mệt.
Sau khi Thiền ông viên tịch, Sư trụ trì chùa và chuyên tập pháp môn “Tổng trì tam ma địa” lấy đó làm sự nghiệp. Bấy giờ Sư nói ra lời gì dân chúng đều cho là lời sấm ký. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính Sư.”
Và từ đó, Vạn Hạnh đã tỏ ra xuất sắc trong việc tiên đoán sự thắng bại của quân ta. Tháng 3 năm Thiên Phúc thứ nhất (981), dưới thời trị vì của Lê Đại Hành, tướng nhà Tống là Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến Bạch Đằng Giang. Họa ngoại xâm lửng lơ trên đầu.
Vua Lê Đại Hành bấy giờ vốn biết tiếng Vạn Hạnh, cho người mời sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi. Sư đáp: – Trong vòng 37 ngày giặc phải lui. Quả nhiên, quân Tống đại bại đúng như lời dự đoán của Thiền sư.
Năm Nhâm Ngọ (982), vua Đại Hành lại sai bọn Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ sang Chiêm Thành, nhưng bị vua Chiêm bắt giữ. Vua oán giận lắm, có ý muốn xuất quân Nam chinh. Nhưng việc bàn định chưa dứt khoát. Biết việc, Vạn Hạnh tâu với vua:
– Xin hoàng thượng mau cất binh, nếu không ắt mất cơ hội.
Nghe lời, Lê Đại Hành bèn sửa sang thuyền chiến và đồ giáp binh, thân tự làm tướng, đi đánh, chém được tướng nước Chiêm là Bề Mi Thuế tại trận và bắt được tù binh rất nhiều. Chúa Chiêm Thành bỏ chạy. Ta bắt được trăm cung nữ và vàng bạc châu báu kể có hàng vạn, san phẳng cả thành trì, phá hủy cả tông miếu, vừa đầy một năm mới về kinh đô.
Bài thơ- đọc xong toát mồ hôi
Bấy giờ có tên Đỗ Ngân ghen ghét với tài năng của Vạn Hạnh, muốn tìm cách mưu hại. Sư biết trước, đưa cho y một bài thơ: Cây đất sinh nhau bạc với vàng – Cớ sao thù địch mãi cưu mang – Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt – Thật đến về sau chẳng hận lòng.
Nguyên văn câu một là: Thổ mộc tương sinh ngân bạn kim; chiết tự Thổ mộc là chữ “Đỗ”, chỉ Đỗ Ngân. Nguyên văn câu ba là: Đương thời ngụ khẩu thu tâm tuyệt; chiết tự, ngũ với khẩu là chữ ngô là “ta”, thu với tâm là chữ “sầu”. Đỗ Ngân đọc xong sợ toát mồ hôi, từ ấy thôi hẳn ý định xấu xa.
Đối với Lý Công Uẩn, ngay từ buổi đầu, ở viện Cảm Tuyền, nơi Thiền sư Lý Khánh Văn đang nuôi và dạy Lý Công Uẩn (lúc còn nhỏ), Sư Vạn Hạnh thấy khen rằng: “Đây là người phi thường sau khi lớn lên tất có thể giải quyết rối rắm (cho đời) mà làm minh chúa của thiên hạ”. Việc nhìn tướng biết người ấy về sau quả linh nghiệm như lời ông nói khi Lý Công Uẩn lên ngôi mở ra triều Lý.
(còn nữa)
Nguyễn Thành Hữu