Viêm thực quản trào ngược
Viêm thực quản trào ngược, hay còn gọi là bệnh trào ngược dạ dày - thực quản là tình trạng viêm loét thực quản do dịch dạ dày trào ngược lên thực quản diễn ra thường xuyên hay từng lúc. Mức độ viêm thực quản phụ thuộc vào thời gian và tần suất tiếp xúc giữa các chất trào ngược với niêm mạc thực quản. Bệnh không chỉ gây khó chịu mà còn có nguy cơ gây ra những biến chứng nặng nề như loét, hẹp, chảy máu thực quản, thậm chí dẫn đến ung thư.
Trong Đông y, bệnh lý này thuộc phạm vi các chứng bệnh như “Ế cách”, “Hung thống”, “Thổ toan”…do nhiều nguyên nhân gây nên như rối loạn tình chí, ẩm thực bất điều, lao lực quá độ, cảm thụ ngoại tà…với cơ chế chủ yếu là do vị khí thượng ngịch, thăng giáng thất thường mà phát sinh ra các chứng trạng như ợ hơi, ợ chua, đau tức sau xương ức, viêm rát họng, nôn và buồn nôn...
Ba phương thức dùng thuốc
Về mặt trị liệu bao gồm nhiều biện pháp như châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt, tập luyện khí công dưỡng sinh, yoga, thiền, Cân ma đạt kinh, Thái cực quyền…Ngoài ra, còn có thể chọn dùng các món dược thiện có công dụng bồi bổ tỳ vị, lý khí giáng nghịch hỗ trợ trị liệu trào ngược dạ dày - thực quản rất dễ được cơ thể chấp nhận. Để trị liệu đạt hiệu quả cao và bền vững, Đông y thường hay phối hợp cả hai biện pháp dùng thuốc và không dùng thuốc.
Về dùng thuốc thường lựa chọn theo ba phương thức: biện chứng luận trị (căn cứ theo thể bệnh mà lựa chọn bài thuốc), biện bệnh luận trị (xây dựng một bài thuốc dùng cho mọi thể bệnh) và sử dụng kinh nghiệm dân gian (đơn phương nghiệm phương). Cụ thể :
Biện chứng luận trị: Thông qua Tứ chẩn (vọng, văn, vấn, thiết) mà quy vào các thể bệnh và mỗi thể bệnh có phương pháp và bài thuốc phù hợp. Ví như, với thể Can vị bất hòa phải sơ can hòa khí giáng nghịch, trọng dùng bài Tứ nghịch tán hợp Tiểu bán hạ thang gia giảm; Với thể Can vị uất nhiệt phải sơ can tả nhiệt hòa vị, trọng dùng bài Đan chi tiêu dao tán gia giảm....
Biện bệnh luận trị: Thông qua cơ chế bệnh sinh và các chứng trạng cơ bản mà lựa chọn một bài thuốc có thể dùng cho tất cả các thể bệnh dưới các dạng thuốc khác nhau như thuốc thang sắc hay các Đông dược thành phẩm (cao, đơn, hoàn, tán, viên nang, viên nén, trà tan, siro, thuốc nước đóng ống…). Có thể nói, hình thức này hiện nay đang rất phát triển, nhất là các Đông dược thành phẩm được bào chế dưới dạng tân dược, bởi tính phổ thông, dễ dùng, tiện bảo quản và vận chuyển. Tuy nhiên, tính “biện chứng” của chúng cũng là một vấn đề cần được xem xét và nghiên cứu.
Đơn phương nghiệm phương: Đây là một kho tàng hết sức phong phú, khó có thể kể hết với đặc điểm chung là đơn giản, dễ kiếm, dễ chế, tiện dùng và có hiệu quả ở các mức độ khác nhau. Một số bài thuốc điển hình:
- Cây ngũ sắc 14g, hoàng kỳ 16g, tía tô 8g, chỉ xác 6g, xương bồ 16g, hoài sơn 8g, biển đậu 6g, trần bì 8g, đương quy 10g, bạch truật 8g, lá đắng 12g, lá lốt 6g, sinh khương 8g, sâm đại hành 10g, sắc uống 2 ngày 1 thang sau khi ăn.
- Khôi tía 16g, cỏ lào 12g, loét mồm 12g, tam thất nam 12g, khương hoàng 10g, cam thảo 10g, sắc uống 2 ngày 1 thang, mỗi ngày uống 2 lần trước khi ăn sáng và trước khi đi ngủ 30 phút
- Hắc tao nhân 16g, bạch truật 12g, 10g hoài sơn, 16g phòng sâm, 10g liên nhục, ngưu tất 8g, 10g viễn chí, trần bì 6g, bán hạ chế 12g, chỉ xác 8g, cam thảo 4g.Tất cả đem sắc cùng với 1 lít nước, sắc cô cho đến khi còn một nửa là được, chia uống 3 lần trong ngày sau bữa ăn.
- Hoài sơn, liên nhục, ngũ gia bì mỗi vị 16g, tía tô 20g, bạch truật 16g, cam thảo 10g, phòng sâm 16g, chỉ xác 8g, bán hạ 10g, sinh khương 4g, cây ngũ sắc (sao vàng hạ thổ) 16g, bạch linh 12g, lá đinh lăng (sao thơm) 12g. Sắc uống 2 ngày 1 thang, uống mỗi ngày 2 lần.
- Viễn chí 12g, cam thảo 12g, trần bì 12g, ngưu tất 16g, hắc táo nhân 16g, cát căn 16g, hoài sơn 16g, liên nhục 16g, chỉ xác 10g và bán hạ chế 10g. Sắc uống 2 ngày 1 thang, mỗi ngày uống 2 lần ngay khi còn ấm và uống trước bữa ăn.
BS Khánh Hiển (Bệnh viện TƯQĐ 108)