Giãn tĩnh mạch thừng tinh là sự giãn và xoắn bất thường của tĩnh mạch tinh đoạn đi trong thừng tinh. Cơ chế chính xác gây tổn thương tinh hoàn ở người bệnh này vẫn chưa được làm rõ nhưng các ý kiến chủ yếu cho rằng cơ chế tổn thương từ việc tăng nhiệt ở bìu. Bệnh là nguyên nhân của 35% trường hợp vô sinh nam nguyên phát và 75-81% trường hợp vô sinh nam thứ phát.
Ở người bệnh giãn tĩnh mạch thừng tinh, có một số bất thường: Thể tích tinh hoàn nhỏ, rối loạn sinh tinh do sự thay đổi mô học của tinh hoàn, bất thường của tinh dịch đồ, giảm nồng độ testosterone và thay đổi nhiều hormon khác.Trường hợp nhẹ phải làm nghiệm pháp Valsalva mới có thể phát hiện được nhưng nặng dễ dàng nhìn thấy khối giãn tĩnh mạch, khi sờ vào thì có cảm giác như “búi giun”.
Theo Đông y, giãn tĩnh mạch tinh thuộc vào chứng thiên truy. Nguyên nhân gây bệnh là do thấp trệ. Chính vì thế phương pháp điều trị chứng thiên truy là dùng thuốc uống giúp lưu thống khí huyết, giảm ứ đọng máu tại tinh hoàn.
Y học cổ truyền coi vô sinh do giãn tĩnh mạch thừng tinh vào thể “huyết ứ trở trệ”, biểu hiện thừng tinh giãn, đau khi xuất tinh, ít hoặc không có tinh trùng, tinh trùng yếu, tinh dịch có hồng cầu, kèm theo âm nang và bụng dưới đau rút, đau cố định và kéo dài liên tục, càng về đêm càng đau, hay tái phát, sắc môi xám tối, chất lưỡi tía và có điểm xuất huyết, mạch trầm sáp hoặc tế sáp.
Phép trị: Hoạt huyết hóa ứ thông tinh bằng bài thuốc Huyết phủ trục ứ thang gia giảm: Sài hồ 10g, chỉ xác 10g, ngưu tất 10g, đào nhân 10g, hồng hoa 10g, xích thược 10g, đương quy 10g, xuyên sơn giáp 15g, lộ lộ thông 15g, đan sâm 20g, vương bất lưu hành 20g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Phương giải: Đan sâm, hồng hoa, đào nhân và xích thược hoạt huyết hóa ứ; Xuyên sơn giáp, lộ lộ thông và vương bất lưu hành hóa ứ, thông tinh; Sài hồ và chỉ xác điều lí khí cơ; Ngưu tất bổ thận hoạt huyết, dẫn thuốc hạ hành.
Gia giảm: Nếu đàm ứ hố kết gia trần bì, bán hạ chế, qua lâu nhân và ý dĩ để trừ đàm hóa ứ. Nếu khí trệ huyết ứ gia thanh bì và hương phụ để hành khí hoạt huyết. Nếu hàn ngưng huyết ứ gia xuyên luyện tử, ô dược và tiểu hồi hương để tán hàn, hoạt huyết. Nếu nhiệt uẩn huyết ứ gia chi tử. Nếu tinh ứ, tinh thiểu gia hoàng tinh, quy giáp vương bất lưu hành để hóa ứ sinh tinh. Nếu huyết tinh gia tam thấy, hạn liên thảo và nữ trinh tử. Nếu không xuất tinh được gia ngô công, phòng phong.
Nếu huyết ứ tinh trở mà không có tinh trùng gia tam lăng, nga truật, hồng hoa, quy vĩ, một dược và đan sâm để hoạt hoạt sinh tinh. Nếu dương nuy gia sa sàng tử và tử thạch anh để phù dương chấn nuy. Nếu tinh đạo đau nhói gia hổ phách, bồ hoàng và huyền hồ sách để thông lợi chỉ thống. Nếu bụng dưới đau chương gia ô dược và tiểu hồi hương để hành khí tiêu thũng, chỉ thống. Nếu huyết ứ nội phủ mà thành ung chứng gia: ngũ vị tiêu độc ẩm để thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết hóa ứ. Nếu huyết ứ mà tiểu tiện lâm trọc gia đương quy, ngưu tất, hoạt thạch, cù mạch, đông lăng tử để hoạt huyết hóa ứ, phân lợi thanh trọc.
BS Khánh Hoàng (Hội Đông y Việt Nam)