Bộ dấu ấn ung thư đại trực tràng
Bệnh nhân N. cho biết, khoảng 1 tháng nay thi thoảng ông thấy đại tiện phân nát, không nhày, không lẫn máu kèm theo đau bụng âm ỉ vùng quanh rốn, hạ vị, không quặn thành cơn. Sau đó, ông lấy mẫu xét nghiệm bộ dấu ấn ung thư đại trực tràng tại nhà, trong đó có chỉ số CEA là 8.92ng/mL, tức tăng gấp đôi giới hạn bình thường.
Mô bệnh học trên nhuộm HE: Các tuyến biến đổi ác tính với nhiều nhân chia. |
Bệnh nhân này may mắn được bác sĩ gọi điện tư vấn, khuyên nên tới khám và nội soi đánh giá thêm. Kết quả nội soi đại trực tràng cho thấy, có 1 polyp kích thước xấp xỉ 3mm (đã được tiến hành cắt polyp ngay khi phát hiện bằng Snare - thủ thuật thuận lợi và không gây đau, khó chịu cho bệnh nhân).
Tuy nhiên, vị trí trực tràng cách rìa hậu môn khoảng 10cm có 1 khối sùi loét kích thước xấp xỉ 3cm, bờ nham nhở, chạm đèn soi dễ chảy máu. Trước tổn thương nghi ngờ ác tính, bác sĩ đã tiến hành sinh thiết 5 mảnh tại khối sùi làm giải phẫu bệnh. Kết quả bệnh nhân N. bị ung thư trực tràng.
Do triệu chứng của ung thư đại trực tràng dễ nhầm lẫn với bệnh lý khác nên khi đi khám người bệnh sẽ được chỉ định các xét nghiệm, kỹ thuật chuyên dụng để được theo dõi, chẩn đoán chính xác. Thông thường các xét nghiệm, kỹ thuật được chẩn đoán, tầm soát ung thư đại trực tràng gồm: Xét nghiệm CEA; Xét nghiệm tìm máu ẩn trong phân, sinh thiết; Nội soi trực tràng và chụp cắt lớp vi tính.
Theo ThS.BS Đỗ Đức Linh, chuyên gia Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Đa khoa Medlatec, chụp cắt lớp vi tính trong bệnh lý ung thư đại trực tràng có ý nghĩa rất quan trọng để đánh giá chính xác kích thước, vị trí của tổn thương, đánh giá mức độ xâm lấn ra các cơ quan lân cận, đánh giá tổn thương di căn các hạch cũng như các tạng ở xa như gan, phổi, xương... từ đó giúp bác sĩ đưa ra hướng điều trị thích hợp.
Hình ảnh chụp CT 128 dãy có tiêm thuốc cản quang của bệnh nhân N. cho thấy, ngoài tổn thương ung thư trực tràng, bệnh nhân còn có vài hạch trong ổ bụng và khoang sau phúc mạc, điều này giúp bác sĩ có định hướng tốt hơn trong cuộc phẫu thuật cắt bỏ khối u sau này. Do nằm trong chuỗi bệnh viện liên kết, bệnh nhân N. sau đó đã được làm thủ tục nhanh chóng để chuyển sang Bệnh viện Hữu Nghị Việt Xô phẫu thuật.
Phát hiện sớm bệnh kéo dài sự sống trên 10 năm
PGS.TS.BS Đoàn Hữu Nghị, Phó Chủ tịch hội Ung thư Hà Nội chia sẻ, ung thư đại trực tràng xếp thứ 2 thế giới về số lượng người mắc, ngang hàng với ung thư gan nguyên phát. Tuy nhiên, khả năng chữa khỏi ung thư đại tràng cao hơn so với các bệnh ung thư đường tiêu hóa khác. Các chuyên gia ghi nhận, số bệnh nhân ung thư đại tràng sau phẫu thuật sống thêm được 5 năm nhiều hơn bệnh nhân ở ung thư gan, ung thư dạ dày hay ung thư thực quản. Trường hợp của bệnh N. đã rất may mắn phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm nên cơ hội kéo dài sự sống sẽ được hơn 10 năm.
Từ trường hợp của bệnh nhân N., PGS.TS.BS Đoàn Hữu Nghị khuyến cáo, ung thư đại trực tràng là bệnh ung thư đường tiêu hóa phổ biến, thường xuất hiện ở người có độ tuổi từ 40 trở lên. Giống như hầu hết các loại ung thư khác, ung thư đại trực tràng thường không biểu hiện các triệu chứng đặc hiệu ở giai đoạn sớm. Các biểu hiện sớm hay gặp như rối loạn tiêu hóa không điển hình lẫn với các triệu chứng bệnh khác như ợ hơi, chậm tiêu, trướng bụng, đau bụng nhẹ, rối loạn đi ngoài, hay mót đại tiện, táo bón, khó rặn... Các rối loạn bài tiết phân gồm táo bón hay đi phân lỏng bất thường, kéo dài, phân nhỏ so với bình thường, có máu trong phân, các dấu hiệu khác là mệt mỏi, sụt cân... Do vậy, tầm soát ung thư đại trực tràng nên được thực hiện định kỳ, ngay cả khi cơ thể không xuất hiện các dấu hiệu nói trên. Thời gian thực hiện tầm soát là 6 tháng/lần, nhất là những nhóm có nguy cơ cao như:
+ Người trên 50 tuổi.
+ Cá nhân hoặc người thân trong gia đình có tiền sử bệnh lý liên quan đến đường ruột, polyp đại tràng, polyp trực tràng, ung thư đại trực tràng.
+ Người thường xuyên bị táo bón, đại tiện ra máu không rõ nguyên nhân.
+ Người có lối sống ăn uống không lành mạnh, thường xuyên hút thuốc lá, uống rượu, bia…
+ Người bị viêm loét đại trực tràng, có tiền sử mắc bệnh Crohn.