Tỉ lệ người từ 18 đến 45 tuổi bị đột quỵ đang tăng với tốc độ nhanh hơn bất kỳ nhóm tuổi nào khác. (Ảnh: ITN) |
Tính riêng khu vực Bắc Colorado (Hoa Kỳ), số thanh niên bị đột quỵ đã tăng gần gấp đôi trong vài năm qua.
Vì thực tế này, Anderson, một nhà thần kinh học tại Bệnh viện Đa khoa Mass., khuyến nghị rằng các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nên xem xét các yếu tố nguy cơ gây đột quỵ ở người trẻ tuổi và giúp họ quản lý các yếu tố nguy cơ đó hiệu quả hơn, trước khi xảy ra đột quỵ.
Nguyên nhân gây đột quỵ ở người trẻ
Anderson cho rằng các yếu tố nguy cơ gây đột quỵ ở người trẻ tuổi cũng tương tự như ở người lớn tuổi: huyết áp cao, tiểu đường, cholesterol cao và béo phì. Tất cả những vấn đề này đang trở nên phổ biến hơn ở người Mỹ trẻ tuổi.
Ngoài ra, người trẻ còn có thêm các yếu tố nguy cơ “thầm lặng” gây đột quỵ, chẳng hạn như:
Lối sống ít vận động, làm việc quá nhiều tại bàn làm việc và không có đủ thời gian hoạt động ngoài trời.
Sử dụng chất gây nghiện, bao gồm thuốc lá, nicotine, rượu, ma túy và căng thẳng.
Việc nhận biết sớm các dấu hiệu giúp ngăn chặn cơn đột quỵ. (Ảnh: ITN) |
Đây đều là những yếu tố rủi ro có thể thay đổi được và nếu được quản lý đúng cách, bạn có thể ngăn ngừa đột quỵ.
Theo UCHealth, đột quỵ do thiếu máu cục bộ (do mạch máu bị tắc nghẽn) chiếm 87% tổng số ca đột quỵ và 60% đột quỵ ở người dưới 50 tuổi.
Mặc dù đột quỵ do thiếu máu cục bộ và đột quỵ do xuất huyết xảy ra chủ yếu ở những người trên 55 tuổi nhưng tỷ lệ ngày càng gia tăng ở người trẻ tuổi.
CDC lưu ý rằng 23% số người từ 18 đến 39 tuổi bị tăng huyết áp, làm tăng gấp đôi nguy cơ đột quỵ.
Có một số tình trạng ít phổ biến hơn có thể khiến người ta bị đột quỵ khi còn trẻ, bao gồm tiền sử gia đình, ảnh hưởng di truyền hoặc trong thời gian gần đây là COVID-19, có thể gây ra đông máu bất thường. Rung nhĩ do nhiều nguyên nhân cũng làm tăng nguy cơ đột quỵ.
Đột quỵ thường gặp ở phụ nữ hơn nam giới. Việc sử dụng thuốc mang thai và thuốc tránh thai cũng là góp phần gây ra đột quỵ.
Phương pháp nhận biết sớm dấu hiệu đột quỵ
Một bệnh nhân nghi ngờ đột quỵ nên nhanh chóng tiến hành nhiều xét nghiệm chẩn đoán. (Ảnh: ITN) |
Anderson cho rằng điều quan trọng là phải nhận biết các dấu hiệu đột quỵ ở mọi lứa tuổi, vì nhận biết sớm cho phép chúng ta tìm kiếm sự trợ giúp sớm, điều này có thể mang lại kết quả tốt.
Việc nhận biết sớm thậm chí giúp ngăn chặn cơn đột quỵ vì có nhiều phương pháp điều trị có thể được áp dụng trong vài giờ đầu đến 24 giờ sau khi cơn đột quỵ bắt đầu. Điều trị sớm cũng giúp ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng phát triển.
Anderson khuyến nghị những người trẻ tuổi cần nắm được “B.E., F.A.S.T.” - phương pháp xác định đột quỵ:
- Cân bằng: Bạn có bị mất thăng bằng hoặc chóng mặt đột ngột không?
- Mắt: Bạn có bị mất thị lực không?
- Khuôn mặt: Khuôn mặt hoặc nụ cười của bạn trông không đều đặn, hoặc một bên khuôn mặt của bạn bị xệ xuống?
- Cánh tay: Một cánh tay hoặc chân có bị thõng xuống hoặc bạn cảm thấy yếu một bên?
- Lời nói: Bạn đang gặp khó khăn khi nói, giao tiếp hoặc hiểu người khác, hoặc lời nói của bạn bị ngọng?
Cách đơn giản giúp người trẻ phòng tránh đột quỵ
Theo Anderson, mỗi phút trôi qua kể từ khi các triệu chứng bắt đầu có thể đồng nghĩa với việc sức khỏe và khả năng của bạn sẽ có thêm nguy cơ bị tổn hại vĩnh viễn.
Người có triệu chứng đột quỵ không nên lái xe, ăn, uống hoặc đi ngủ. Theo Tạp chí Thần kinh học (xuất bản ngày 17 tháng 9 năm 2013), những bệnh nhân trẻ tuổi ít đề phòng đột quỵ vì họ không hiểu nguy cơ lớn từ đột quỵ.
Theo Anderson, một bệnh nhân nghi ngờ đột quỵ nên nhanh chóng tiến hành nhiều xét nghiệm chẩn đoán, sau đó là xét nghiệm hình ảnh và xét nghiệm liên quan đến các vấn đề liên quan đến nhiều cơ quan trong cơ thể như siêu âm tim, chụp động mạch não, v.v.
Tùy thuộc vào chẩn đoán cuối cùng, chiến lược tái tưới máu có thể hiệu quả và có vẻ an toàn ở người trẻ tuổi. Tuy nhiên, phương pháp làm tan huyết khối hoặc làm tan cục máu đông chỉ được chấp thuận cho những người từ 18 tuổi trở lên.
Tốt nhất, người trẻ tuổi nên phòng ngừa đột quỵ bằng cách điều chỉnh các yếu tố nguy cơ bao gồm lối sống, chế độ ăn uống và kiêng sử dụng những chất gây kích thích.