Hình minh họa.
Bị phế làm thường dân
Không bao lâu trước khi băng, Lê Thái Tổ lại ban tờ sắc cho thiên hạ, đại thần, bá quan văn võ và quân dân: “Làm tôi phải trung, làm con phải hiếu, thế mà con trẫm là Tư Tề không trung hiếu với cha mẹ, ngược đãi quần thần, khinh nhờn trời đất, không theo đạo của các đấng quân vương. Nay giáng Tư Tề xuống chức Quận vương. Vậy bố cáo thiên hạ“.
Tháng 8, vua giáng vương xuống tước Quận vương, ban chiếu lấy con thứ Nguyên Long thừa kế đại thống.
Tháng giêng, mùa xuân năm Thiệu Bình (niên hiệu của vua Lê Thái Tông) thứ nhất (1434), có 3 người thị nữ chạy đến tâu với vua Lê Thái Tông rằng: Quận vương nói nhiều điều càn bậy quái gở, tỏ ra không thuận.
Vua Thái Tông nổi giận, lệnh cho các văn võ đại thần và bá quan không được vãng lai tới nơi ở của Quận vương. Còn Quận vương không có người tới gọi thì không được vào triều. Nếu ai dám tư tình dẫn vào cửa hoặc trăm quan có ai dám tự ý đến nhà Quận vương thì bị tội nặng.
Tháng 5 năm thứ 5 (1438) phế truất làm thường dân. Sau đó ông mất, được truy phong là Quận Ai vương.
Sử sách không thấy thêm một dòng nào nữa viết về Tư Tề. Hơn 300 năm sau Lê Quý Đôn khi viết về Lê Thái Tông có lời bình: “Vua Lê Thái Tông nghi kỵ anh mình, phế truất ruồng đuổi một cách ngang ngược”.
Các nhà sử học các thời không ai nhắc gì tới vợ, con và cuộc đời Quận Ai vương Tư Tề nữa. Bởi ông ấy bị truất xuống làm thường dân.
Chỉ còn trong các tư liệu dân gian
Tuy vậy, trong dân gian còn có hàng chục dòng họ ở các nơi Tây Bắc, Hà Tây (cũ), Thanh Hóa, Quảng Nam nhận mình là hậu duệ của Tư Tề.
Gần đây ở Hà Tây (nay là Hà Nội) người ta phát hiện có người còn giữ gia phả của chi họ Tư Tề: “Tương truyền khi bị phế làm thứ dân, Tư Tề đã về chùa Tường Quang, thôn Thượng Mạo tu hành và viên tịch tại đây.
Trong bộ Ngọc phả Nguyễn tộc phần Bách Việt Ngọc phả truyền thư hiện còn ở quê Tường Quang, xã Phú Lương, Thanh Oai, Hà Nội trong đó có đoạn: “Lê Từ biệt danh Tư Tề, là con trưởng Thái Tổ hoàng đế, bị phế làm thứ dân, lập con thứ là Lê Nguyên Long làm Thái Tông hoàng đế.
Lê Từ làm vương, gặp lúc Thị Anh nhiếp chính nên bị giáng làm thứ dân. Người có 4 người con, đành bỏ hoàng triều đi tìm Hoằng Tín hầu Nguyễn Thực cầu cứu.
Hoằng Tín hầu nói: Kẻ gian ác hiểm độc rất nhiều, không thể ra tay được. Chùa Tường Quang ở tại Bác Lãm, thành Long Biên, khu Thượng Mạo thực là chốn để ngài dung thân. Đến đây tu hành đã có lão phu bảo vệ cho ngài.
Thị Anh muốn giết Tư Tề nhưng thấy Hoằng Tín hầu đứng ra bảo vệ nên cũng không dám hành động.
Nhân dân gia thân đệ tử làm lễ an táng Ngài ở trước cổng chùa Tường Quang”.
Quốc vương Tư tề có 4 người con, nhưng đều không để lại tung tích, ngoại trừ thứ nữ Mai Hoa mà người đời tôn là Mai Hoa công chúa.
Tư Tề- nạn nhân của tranh chấp quyền lực. Sau khi bị loại bỏ, ông và gia đình sống cô quạnh giữa Đông Kinh hoa lệ. Họ sống nay đây mai đó, mai danh ẩn tích. Cũng có lúc Tư Tề định dấy binh giành lại những gì đã mất, nhưng sức cùng lực kiệt phải về ở Nam Đàn (Nghệ An) rồi Nam Điền (Thanh Hóa), cuối cùng ở vùng Phù Lưu Tế (Mỹ Đức, Hà Tây cũ).
Còn Mai Hoa công chúa chu du thiên hạ, lúc ở Nông Cống rồi lên Côn Sơn, rồi về Phù Lưu Tế thăm nhà. Và cuối cùng lấy Đạo hiệu Tuyết Quỳnh về động Hương Sơn, bên dòng suối Yến với những rừng mơ quanh suối Giải oan. Ni cô Thích Diệu Tuyết Quỳnh cùng tiểu đồng sống giữa cảnh non xanh nước biếc.
Sau 38 năm tụng niệm kinh Phật, tách khỏi cõi trần, bà viên tịch ở tuổi 56.
Trịnh Dương