5% đột quỵ do rung nhĩ
Rung nhĩ là một trong những rối loạn nhịp tim rất thường gặp, chiếm khoảng 0,4-1% và gặp ở khoảng 10% số người trên 80 tuổi. Bệnh có thể là nguyên nhân khoảng 5% các trường hợp đột quỵ, gây ra những biến chứng nặng nề, có thể tử vong hoặc tàn phế suốt đời.
Đây là một hình thái rối loạn nhịp tim nhanh. Ở người bình thường, nhịp tim từ 60 – 80 lần trong một phút khi cơ thể nghỉ ngơi. Khi rung nhĩ, các tâm nhĩ đập rất nhanh và không đều với tần số > 300/ phút. Rung nhĩ ban đầu có thể chỉ thoáng qua trong thời gian vài phút, vài giờ, đôi khi vài ngày xen kẽ với những giai đoạn nhịp tim bình thường.
Tuy nhiên, nếu không được điều trị thích hợp, rung nhĩ trở thành mạn tính. Vì vậy việc chẩn đoán và điều trị rung nhĩ sớm rất quan trọng để giảm thiểu tối đa biến chứng của rung nhĩ, đem lại cuộc sống với chất lượng tốt hơn cho bệnh nhân.
Rung nhĩ có thể xuất hiện mà không do bất kì một bệnh lý tim mạch thực tổn nào. Tuy nhiên, thường gặp hơn ở bệnh nhân mắc một bệnh lý tim mạch nào đó như bệnh van tim, tăng huyết áp, bệnh mạch vành, suy tim…Đôi khi, có thể gặp ở bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, cường giáp hoặc bệnh tim bẩm sinh.
Bệnh nhân có thể không có triệu chứng gì. Đa số bệnh nhân thấy hồi hộp đánh trống ngực, khó thở, đau ngực, chóng mặt, vã mồ hôi. Một số bệnh nhân vào viện vì các biến chứng của bệnh như đột quỵ do tắc mạch não hay các biểu hiện của tắc mạch chi.
Nghe tim sẽ thấy nhịp không đều, loạn nhịp hoàn toàn và có thế phát hiện các bệnh van tim kèm theo (nếu có). Để chẩn đoán xác định, bệnh nhân được làm điện tâm đồ
Nguyên tắc điều trị rung nhĩ
Kiểm soát tần số thất và chuyển rung nhĩ về nhịp xoang: Trong phần lớn các trường hợp rung nhĩ, thuốc digitalis hoặc thuốc chẹn thụ thể bêta giao cảm giúp làm tăng hiệu quả co bóp của tâm thất do làm chậm nhịp tim và có thể phục hồi được nhịp tim bình thường. Các thuốc khác như quinidin sulfat hoặc procainamid có thể được sử dụng thay thế nếu hai thuốc trên không hiệu quả.
Bệnh nhân rung nhĩ không dung nạp khi đã điều trị tối ưu cần được tư vấn hỗ trợ của các chuyên gia về điện sinh lý học tim để có biện pháp can thiệp tích cực hơn.
Một vài trường hợp rung nhĩ dai dẳng được điều trị bằng sốc điện – người ta dùng một dòng điện phóng vào tim khi người bệnh được giảm đau hoặc gây mê để chuyển nhịp. Khi nhịp tim đã trở về bình thường, cần tiếp tục dùng thuốc duy trì để phòng ngừa rung nhĩ tái phát, nhất là khi bệnh nền là một bệnh mạn tính không thể điều trị triệt để được.
Đối với các bệnh nhân rung nhĩ mạn tính, có thể điều trị rung nhĩ qua đường ống thông (catheter ablation). Triệt đốt bằng catheter là phương pháp có hiệu quả và là lựa chọn cho bệnh nhân rung nhĩ có triệu chứng điều trị nội khoa thất bại. Đặc biệt ở bệnh nhân trẻ tuổi, triệt đốt bằng catheter có lợi hơn là điều trị bằng thuốc kéo dài nhiều năm. Tỷ lệ thành công từ 40 - 90% với chỉ một lần triệt đốt, nếu bệnh nhân tái phát rung nhĩ có thể tiếp tục tiến hành triệt đốt nhiều lần tiếp theo.
Phẫu thuật điều trị rung nhĩ: Phẫu thuật cô lập nhĩ trái (Maze) thường được chỉ định kết hợp với các phẫu thuật tim khác như mổ bắc cầu chủ vành, thay van tim, mổ sửa chữa trong bệnh tim bẩm sinh,... Phẫu thuật sẽ tạo các đường cắt cô lập từng vùng cơ nhĩ, tiểu nhĩ và các tĩnh mạch phổi nhưng vẫn bảo tồn được chức năng dẫn truyền trong nhĩ, nhờ vậy ngăn chặn được sự hình thành các vòng vào lại gây rung nhĩ.
Dự phòng huyết khối phòng chống đột quỵ. Thuốc chống đông dự phòng huyết khối được chỉ định dùng cho tất cả bệnh nhân rung nhĩ trừ duy nhất trường hợp rung nhĩ đơn độc ở bệnh nhân dưới 60 tuổi (không có bệnh lý tim mạch thực thể kèm theo) hoặc có chống chỉ định dùng thuốc chống đông máu.
Bệnh nhân rung nhĩ có bệnh cơ tim phì đại, hẹp van hai lá, hoặc van cơ học phải được điều trị bằng thuốc kháng vitamin K như: Wafarin hoặc Sintrom.
Cách phòng ngừa rung nhĩ: Các phương pháp dự phòng bệnh van tim và bệnh mạch vành đều giúp làm giảm nguy cơ xuất hiện rung nhĩ. Một số yếu tố thuận lợi gây khởi phát rung nhĩ thì có thể kiểm soát được và dự phòng được, bao gồm thuốc lá, cà phê và rượu. Khi bị rung nhĩ, thì cần thiết được điều trị sớm và theo dõi tại các cơ sở chuyên khoa tim mạch.
BS Ngô Tuấn Anh, Bệnh viện TƯQĐ 108