Tại địa phương, Giám sát đạo là các cơ quan Đô sát viện, giám sát tất cả các nha cấp địa phương. Giám sát đạo, được điều hành bởi một quan giám sát ngự sử tại mỗi đạo. Về trật phẩm, các Giám sát ngự sử tại các đạo đồng trật Chánh ngũ phẩm.
Tấu trình trực tiếp với vua
Theo Đại Nam thực lục chính biên, nhiệm vụ các quan ngự sử được giao như sau: Tả Hữu Đô ngự sử, “Giữ việc chỉnh đốn chức phận các quan để nghiêm phong hoá cho đúng phép tắc”; Tả, Hữu phó Đô ngự sử, “Xem xét các việc trong viện và giúp việc cho Tả hữu đô ngự sử, được giao việc trình bày điều phải, đàn hặc việc trái”;Cấp sự trung phụ trách 6 khoa có nhiệm vụ, “Nếu gặp những việc chậm trễ, trái pháp, lầm lẫn và nhũng tệ quan lại do bọn nha lại gian xảo đổi trắng, thay đen đều phải vạch rõ sự thực mà hặc tấu”.
Giám sát ngự sử 16 đạo có nhiệm vụ, “Kiểm xét địa phương đạo mình, nếu quan lại có những tệ tham ô, chậm trễ trái pháp, thì tuỳ việc mà vạch ra, tham hặc. Phàm quan viên văn võ ở kinh thấy ai không công bằng, không giữ phép đều được phép hặc tấu”.
Hình minh họa
Dưới triều Nguyễn, Đô sát viện có các nhiệm vụ: quyền đàn hặc, nghĩa là quyền vạch rõ các tội lỗi, vi phạm của các quan lại từ bá quan đến các hoàng thân, hoàng tử; quyền tấu trình trực tiếp với vua; quyền ghi chép các lời nói, hành động của vua và quan chức trong các ngày hội triều, nghe chính sự, tài liệu ghi chép nộp cho Quốc sử quán làm tư liệu; quyền kiểm tra các bộ, nha trong triều như việc tế tự,thiết triều, ngoại giao, trường thi, kho tàng…; quyền phúc duyệt các bản án.
Chế độ Kinh lược đại sứ
Các quan lại của các khoa, đạo hoạt động độc lập rất cao và ý kiến tấu sớ của họ có thể được gửi thẳng lên vua mà không phải trình qua Trưởng quan phê duyệt.
Ví dụ, khi vua Minh Mạng băng hà, để tỏ lòng hiếu nghĩa, vua Thiệu Trị tổ chức việc tang lễ quá dài, gây ảnh hưởng đến hoạt động thường nhật của dân chúng, quan Giám sát ngự sử đạo Lạng Bình lúc đó là Doãn Khuê, dâng sớ trực tiếp can gián.
Ngoài việc giám sát thường xuyên của Đô sát viện, triều đình còn thường cử những đoàn thanh tra xuống các địa phương, tại những điểm nóng về kinh tế, hoặc nơi vừa trải qua dịch bệnh, thiên tai, chiến tranh… giải quyết công việc tại chỗ, gọi là chế độ Kinh lược đại sứ.
Nổi tiếng nhất là đoàn Kinh lược sứ của Thượng thư bộ Binh, Cơ mật viện đại thần Trương Đăng Quế, thanh tra toàn bộ 6 tỉnh Nam kỳ vào năm 1836, để lần đầu tiên thiết lập hệ thống sổ sách địa chính của lục tỉnh.
Về phẩm chất, những viên quan được chọn vào làm ở Ngự sử đài là những người cương trực, thẳng thắn, dám nói thẳng, nói thật, nhìn thẳng vào sự thật.
Biết rằng, việc vạch ra cái sai, cái xấu, cái cần phê phán của các quan lại đồng liêu rất dễ gây thù, chuốc oán, nhất là đối với các viên quan lại có địa vị cao hơn mình, rất dễ gánh lấy hậu quả của sự đè nén, trù dập.
Vạch cái sai của các quan còn thế, vạch cái sai của các bậc vua chúa quyền uy tối thượng thì còn nguy hiểm hơn nhiều, chẳng khác gì “vuốt râu hùm”. Vì nói thẳng, nói thật mà bị cách chức, bị đuổi về quê là chuyện “thường ngày ở huyện”, bởi vì “ trung ngôn nghịch nhĩ”. Nhưng trách nhiệm của các vị quan làm việc ở Ngự sử đài là phải nói, phải phản biện.
Trước những lời nói, việc làm, những quyết định vi hiến ở triều đình, các quan làm việc ở Ngự sử đài không thể im lặng, cho qua. Bởi nếu như thế thì chính các quan Ngự sử sẽ bị đàn hặc lại, vì không hoàn thành nhiệm vụ (vì ăn lương chỉ để đàn hặc).
Vì vậy, cái “ghế” của quan Ngự sử thật khó “ngồi”. Làm việc ở Ngự sử đài có trách nhiệm lớn như thế nhưng người đứng đầu cũng chỉ có hàm Tam phẩm, chưa bằng một vị Thượng thư lụcbộ ( Thượng thư có hàm Tòng nhị phẩm).
(Còn nữa)
TS Nguyễn Thành Hữu