Mắc bệnh bạch hầu nguy cơ tử vong cao

Bạch hầu là bệnh truyền nhiễm cấp tính, có tính chất gây dịch, gặp ở mọi lứa tuổi. Bệnh có nhiều biến chứng, ngay cả khi được điều trị, tỷ lệ tử vong cũng lên tới 5-10%, người chưa tiêm chủng 10-20%.

BS Phan Văn Mạnh, Khoa Cấp Cứu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, cảnh báo, bệnh bạch hầu có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, gọi là bạch hầu ác tính. Giả mạc lan rộng có thể gây thở rít, tắc nghẽn đường thở và suy hô hấp, thậm chí tử vong.

“Các biến chứng thường gặp nhất là biến chứng tim, thường là viêm cơ tim và rối loạn dẫn truyền trong tim, và thần kinh (gây liệt). Ngoài ra có thể gặp biến chứng trên thận, gan, tuyến thượng thận…”, bác sĩ Mạnh nói.

Mắc bệnh bạch hầu nguy cơ tử vong cao ảnh 1

Mắc bệnh bạch hầu nguy cơ tử vong cao

Nguy cơ lây lan rộng và gây tử vong

Biểu hiện của bệnh bạch hầu

Sốt nhẹ (hiếm khi vượt quá 39°C)

Viêm amidan đau nhẹ/hoặc viêm họng có giả mạc với đặc điểm: Màu trắng ngà, dày, khó bóc tách, lan nhanh.

Hạch to và sưng to vùng cổ, đặc biệt nếu kết hợp với viêm họng giả mạc và dấu hiệu nhiễm độc toàn thân.

Khàn giọng và thở co kéo, kiểu khó thở thanh quản.

Chảy dịch mũi mủ nhầy lẫn máu kết hợp màng giả ở niêm mạc.

Cô gái 18 tuổi ở Nghệ An vừa được xác định tử vong do bệnh bạch hầu. Người mắc bệnh tại tỉnh Bắc Giang (huyện Hiệp Hòa) có tiếp xúc gần trường hợp tử vong nêu trên. Bệnh nhân được chuyển đến Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương (Hà Nội) điều trị.

Tại Nghệ An, tính đến ngày 8/7, 119 trường hợp tiếp xúc cô gái tử vong. Những trường hợp tiếp xúc gần bệnh nhân được cách ly, điều trị dự phòng bằng kháng sinh 7 ngày và theo dõi sức khỏe trong vòng 14 ngày kể từ khi tiếp xúc lần cuối.

Theo khảo sát từ tháng 8/2023, bệnh bạch hầu diễn biến phức tạp tại các tỉnh phía Bắc với 20 ca nhiễm, 3 ca tử vong (tính đến cuối năm ngoái). Năm 2020, dịch bạch hầu bùng phát tại Đăk Lăk, Kon Tum, Bình Phước... với 5 ca tử vong, 200 ca mắc.

BS Phan Văn Mạnh cho biết, bạch hầu là bệnh truyền nhiễm cấp tính nhóm B, lây nhiễm nhanh nên nguy cơ bệnh lây lan rộng và gây tử vong. Mọi lứa tuổi đều có thể nhiễm bệnh nhưng 70% là ở trẻ dưới 15 tuổi và chưa tiêm vắc xin. Ngay cả khi được điều trị, tỷ lệ tử vong của bệnh cũng lên tới 5-10%.

Bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Trung Cấp, Phó Giám đốc Bệnh viện Nhiệt Đới Trung ương, nhấn mạnh, bạch hầu là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Corynebacterium diphtheria gây ra. Những người chưa được tiêm chủng, nếu nhiễm bệnh bạch hầu, nguy cơ tử vong 10-20%.

Phổ bệnh lâm sàng của bệnh bạch hầu đa dạng từ bệnh nhân không triệu chứng, bạch hầu dẫn đến tình trạng viêm họng giả mạc, bạch hầu hô hấp hoặc nhiễm độc toàn thân. Một trường hợp bệnh bạch hầu điển hình thường qua giai đoạn ủ bệnh 2-5 ngày, sau đó khởi phát với các triệu chứng đau, viêm họng nhẹ.

Khám họng bệnh nhân có thể thấy vết loét có giả mạc màu trắng xám dài, khó bóc bám ở vùng amidan, thành bên và sau họng hoặc thậm chí lan rộng xuống thanh môn và khí quản.

Các triệu chứng thường gặp khác bao gồm: Đau họng (85-90%), sốt nhẹ và ớn lạnh, mệt mỏi, suy nhược, đau đầu, viêm hạch cổ thành hình ảnh cổ bạnh to. Giả mạc đường hô hấp gặp ở khoảng 50% số bệnh nhân, khàn tiếng, khó nuốt và nuốt đau (26-40%).

Ngoài ra, bệnh nhân có thể bị chảy dịch mũi huyết thanh hoặc mủ, giả mạc lan lên lỗ mũi sau. Khó thở, thở rít, thở khò khè ở những bệnh nhân có giả mạc thanh quản. Giả mạc này nhanh chóng gây suy hô hấp do tắc nghẽn đường thở hoặc hít phải màng giả vào khí quản phế quản.

Vi khuẩn Bạch hầu

Vi khuẩn Bạch hầu

Độc tố tấn công nhanh

PGS.TS.Trần Thanh Tú - Giám đốc Trung tâm quốc tế, Bệnh viện Nhi Trung ương - thông tin, bạch hầu lây lan qua hô hấp, qua sinh hoạt chung, sử dụng chung đồ dùng nên có thể nhanh chóng bùng phát thành dịch nếu không được kiểm soát tốt. Khi cơ thể bị vi khuẩn xâm nhập và tấn công, tùy thể bệnh mà các triệu chứng có thể khác nhau: Thể hầu họng, thể ác tính, thể mắt, thể mũi, thể thanh quản, thể rốn, thể da, thể âm đạo.

“Các biến chứng của bệnh bạch hầu rất nguy hiểm, nếu không được điều trị kịp thời. Trong đó, biến chứng tim mạch như viêm cơ tim, rối loạn dẫn truyền cơ tim, huyết khối tim... có thể khiến người bệnh tử vong đột ngột”, PGS.TS Trần Thanh Tú nhấn mạnh.

Các biến chứng khác như biến chứng thần kinh có thể khiến bệnh nhân liệt màn hầu dẫn đến khó nuốt và nói, liệt bàn tay, liệt hai chân, liệt các cơ quan khác... Biến chứng thận gây tổn thương ở cầu thận và ống thận, viêm kết mạc, đường thở tắc nghẽn, khó thở.... có thể hồi phục sau thời gian khỏi bệnh.

Theo bác sĩ Mạnh, bạch hầu là bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra, làm ảnh hưởng mũi, vòm họng và thanh quản (70%). Vi khuẩn sản sinh ngoại độc tố khiến giả mạc phát triển bất thường trong cổ họng, nếu giả mạc phát triển nhanh chóng dẫn đến nghẹt thở.

Ngoại độc tố bạch hầu, khi ngấm vào máu, sẽ gây nhiễm độc toàn thân, gây liệt dây thần kinh sọ não, dây thần kinh cảm giác, dây thần kinh vận động ngoại biên, rối loạn nhịp tim, viêm cơ tim, viêm phổi do liệt cơ hoành, liệt tay, liệt chân và dẫn đến tử vong đột ngột do trụy tim mạch.

Cán bộ y tế Nghệ An lấy mẫu đối với những người liên quan bệnh nhân bạch hầu. Ảnh: CDC Nghệ An.

Cán bộ y tế Nghệ An lấy mẫu đối với những người liên quan bệnh nhân bạch hầu. Ảnh: CDC Nghệ An.

Bác sĩ Mạnh cũng cho rằng, bệnh bạch hầu cần được phát hiện và điều trị sớm để tránh gây biến chứng và dẫn đến tử vong. Liệu pháp điều trị chính là huyết thanh kháng độc tố bạch hầu (SAD), cần được sử dụng càng sớm càng tốt để trung hòa độc tố bạch hầu còn lưu hành trong máu (hiệu quả nhất là trong vòng 48 giờ đầu).

Bên cạnh đó, kháng sinh cũng được sử dụng để ngăn chặn sự phát triển và sinh độc tố của vi khuẩn và làm giảm sự lây nhiễm bệnh.

TS Đặng Thị Thanh Huyền, Phó Trưởng văn phòng Chương trình Tiêm chủng mở rộng Quốc gia, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, cho biết, phát hiện sớm, điều trị kịp thời là đặc biệt quan trọng để hạn chế nguy cơ tử vong do bạch hầu.

Tuy nhiên, hiện nay, việc phát hiện sớm bệnh bạch hầu khá khó khăn do những ca khởi phát thường không sốt. Người mắc thường chủ quan, người thân cũng khó nhận biết, phát hiện để chuyển tới bệnh viện.

Khi những dấu hiệu đau họng, chưa có biểu hiện sốt bị bỏ qua, bệnh nhân sẽ rơi vào giai đoạn nặng, vi khuẩn gây bệnh tiết ra độc tố tấn công cơ thể khiến bác sĩ trở tay không kịp. Nguy hiểm nhất là người bệnh mắc bạch hầu thể tối cấp có thể tử vong chỉ trong 24 - 48 tiếng.

Vì vậy, theo ThS.BS Nguyễn Trung Cấp, người bệnh nghi bạch hầu phải được vào viện để cách ly cho đến khi có kết quả xét nghiệm vi khuẩn hai lần âm tính. Nếu không có điều kiện làm xét nghiệm, cần cách ly bệnh nhân trong 14 ngày và điều trị kháng sinh.

TS Đặng Thị Thanh Huyền cảnh báo, sẽ không có nguy cơ cao mắc bệnh bạch hầu nếu mỗi người dân đều đồng lòng tiêm chủng. Hiện nay, người lớn ít tiêm nhắc lại vắc xin bạch hầu, ho gà, uốn ván. Đây là khoảng trống để mầm bệnh xâm nhập lại. Vì vậy, ngoài trẻ em, người lớn cũng nên tiêm để phòng tránh bệnh bạch hầu cho mình, gia đình và cộng đồng.

Cách phòng bệnh

Vệ sinh cá nhân thật tốt, rửa tay bằng xà phòng thường xuyên.

Có chế độ ăn uống đầy đủ dinh dưỡng để nâng cao miễn dịch.

Hạn chế tiếp xúc nơi đông người, người bệnh.

Khi có các triệu chứng, dù chỉ là cảm cúm, viêm mũi họng, viêm đường hô hấp…, người bệnh cần hạn chế tới nơi đông người. Học sinh nên nghỉ học. Người lao động nghỉ làm để tránh nguy cơ lây bệnh cho người khác.

Phụ huynh cần cho con đi tiêm phòng đầy đủ 3 mũi và tiêm nhắc lại. Tiêm vắc xin là biện pháp hữu hiệu để phòng bệnh.

Theo Đời sống
back to top