Mã đề là cây cỏ sống lâu năm, thân ngắn, lá mọc thành cụm ở gốc, cuống dài, phiến lá hình thìa hay hình trứng, có gân dọc theo sống lá và đồng quy ở ngọn và gốc lá. Hoa mọc thành bông có cán dài, xuất phát từ kẽ lá, hoa dài lưỡng tính, đài 4, xếp chéo, hơi dính ở gốc, tràng màu nâu tồn tại, gồm 4 thùy nằm xen kẽ ở giữa các lá đài. Nhị 4 chỉ nhị mảnh, dài, 2 lá noãn chứa nhiều tiểu noãn. Quả hộp trong chứa nhiều hạt màu nâu đen bóng.
Mã đề mọc hoang và được trồng tại nhiều nơi ở nước ta, trồng bằng hạt, thường trồng vào mùa thu và mùa xuân nhưng tốt nhất vào mùa thu. Mã đề ưa đất tốt, ẩm vừa phải, đất tốt cây rất to. Thu hái vào tháng 7-8, quả chín thì hái toàn cây đưa về phơi hay sấy khô, loại bỏ tạp chất. Lấy hạt thì đập rũ lấy hạt phơi khô.
Cây mã đề cho các vị thuốc: Hạt mã đề gọi là xa tiền tử; Toàn cây và lá gọi là xa tiền thảo. Thành phần hóa học: toàn thân chứa một glucozit gọi là aucubin hay rinantin còn gọi là aucubozit. Trong lá có chất nhầy, chất đắng, carontin, vitamin C, vitamin K. Yếu tố T. trong hạt chứa chất nhầy, axit plantenolic và cholin.
Mã đề vị ngọt, tính hàn, vào 3 kinh can, thận và tiểu trường. Có tác dụng lợi tiểu, thanh phế, can, trừ đàm, chỉ tả, minh mục. Công dụng: Chữa phù thũng, chữa ho đàm, tiểu tiện bí, vàng sẻn, lỵ, mắt mờ. Liều lượng ngày dùng 8 – 12g dạng thuốc sắc.
DS Phạm Hinh (Phó chủ tịch Hội Đông y Việt Nam)