Minh bạch giúp đẩy mạnh cổ phần hóa
Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, từ năm 2016 đến nay, mới chỉ thực hiện được cổ phần hóa ở 35/127 doanh nghiệp Nhà nước (tương ứng 27,5% kế hoạch) và thoái vốn tại 88 trong tổng số 405 doanh nghiệp (bằng 21,8% kế hoạch giai đoạn 2016-2020).
So với tiến độ được nêu trong Quyết định số 1233/QĐ-TTg của Thủ tướng về đẩy mạnh cổ phần hóa DN nhà nước, công tác cổ phần hóa vẫn chậm.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Hồng Long, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển DN, đây chỉ là con số tương đối, vì kinh nghiệm từ giai đoạn trước cho thấy ba năm đầu thường là thời gian để các doanh nghiệp (DN) chuẩn bị nên thực hiện rất chậm, hai năm cuối là quá trình “chạy nước rút” về đích nên tiến trình cổ phần hóa sẽ diễn ra nhanh.
Ông Phạm Đức Trung - Trưởng ban Nghiên cứu cải cách và phát triển DN, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) nhìn nhận, thời gian qua, chất lượng hoạt động cổ phần hóa đã được nâng lên nhiều so với trước. Trước đó, báo cáo giám sát của Quốc hội đã chỉ ra nhiều trường hợp đánh giá không đúng, sai chế độ, vi phạm… gây thất thoát, ảnh hưởng niềm tin, uy tín của quá trình cổ phần hóa.
Nghị định 126/2018/NĐ-CP và Nghị định 32/2018/NĐ-CP được ban hành đã sửa đổi căn bản, thể chế hoá nhiều chủ trương chính sách, áp dụng phương pháp định giá tiên tiến theo thông lệ quốc tế để định giá tài sản nhà nước tại DN… khiến chất lượng cổ phần hóa được nâng cao, đảm bảo mục tiêu hài hoà lợi ích cổ đông, người lao động và Nhà nước…
Nhờ vậy, 3 năm qua đã cổ phần hóa hơn 160 DN, trong đó có nhiều DN quy mô lớn, thương hiệu mạnh, lợi ích thu về từ thoái vốn tăng cao. Chỉ trong 3 năm, số tiền thu về đã đạt trên 70% mục tiêu nghị quyết của Quốc hội giao cho cả giai đoạn 2016 – 2020.
Ông Đặng Quyết Tiến - Cục trưởng Cục Tài chính DN (Bộ Tài chính) đánh giá, các chính sách mới cũng quy định rõ hơn việc thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn, nâng cao nhận thức về cổ phần hóa, thoái vốn, đảm bảo nguyên tắc thị trường, công khai minh bạch. Trong đó, một yêu cầu quan trọng là DN phải thực hiện đúng quy định Nhà nước về sắp xếp, quản lý, sử dụng đất đai, lĩnh vực trước đây còn chưa được tuân thủ tốt.
“Khâu chuẩn bị cổ phần hóa rất quan trọng, nếu DN sắp xếp đúng quy định của luật thì đảm bảo tiến độ cổ phần hóa, không còn chậm chễ như trước. Chúng ta làm đúng luật thì sẽ đẩy nhanh được tiến độ cổ phần hóa” - ông Đặng Quyết Tiến nhấn mạnh.
Được biết, để đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp, giữa tháng 8 vừa qua Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg phê duyệt Danh mục 93 DN thực hiện cổ phần hóa đến hết năm 2020. Trong đó, có 4 DN do Nhà nước nắm giữ từ 65% vốn điều lệ trở lên, 62 DN Nhà nước giữ trên 50% đến dưới 65% vốn điều lệ và 27 DN Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống hoặc không nắm giữ cổ phần.
Tại Quyết định này, Thủ tướng yêu cầu định kỳ hàng quý và trước ngày 30/9/2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển DN tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
Trách nhiệm cá nhân kéo chậm quá trình
Bày tỏ lạc quan về số lượng DN được cổ phần hóa, tuy nhiên, ông Phạm Đức Trung lại bày tỏ lo ngại về kết quả chào bán cổ phần không đạt được tỷ lệ cao so với số lượng mà DN đã được phê duyệt.
Lấy trường hợp cổ phần hóa của Tổng công ty Sông Đà, ông Trung cho rằng việc các DN Nhà nước không bán cổ phần được theo kế hoạch sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu chuyển đổi cơ cấu vốn của Nhà nước vào những ngành nghề hợp lý hơn.
Tổng công ty Sông Đà chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) hơn 219,6 triệu cổ phần, tương đương 48,82% vốn điều lệ sau cổ phần hóa, song chỉ bán thành công 0,37% khối lượng chào bán, còn lại “ế” tới 99,63% cổ phần.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do các quy định trong cổ phần hóa được Nhà nước chưa được ban hành kịp thời, các ngành, địa phương còn gặp những vướng mắc trong việc xác định giá trị sử dụng đất, giá trị DN…. Ngoài ra còn có khả năng hấp thụ của thị trường trong giai đoạn này tương đối yếu, hiệu quả kinh doanh của DN Nhà nước trước khi cổ phần hóa chưa hấp dẫn được giới đầu tư.
Đặc biệt, nguyên nhân còn đến từ việc lãnh đạo tại một số DN Nhà nước trong quá trình cổ phần hóa còn e ngại, sợ trách nhiệm khi xử lý công việc đã thời gian bị kéo dài.
Ông Đặng Quyết Tiến cho rằng, các DN Nhà nước chủ động sắp xếp theo đúng Luật đất đai thì sẽ giúp tiến độ cổ phần hóa rất nhanh, nhưng công tác phối hợp giữa cơ quan đại diện sở hữu vốn Nhà nước và các ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố còn bất cập, các lãnh đạo địa phương cũng không quyết liệt thực hiện nên khiến thời gian cổ phần hóa bị kéo dài.
Còn theo ông Nguyễn Hồng Long, việc một số quy định chưa chặt chẽ tạo tâm lý ngại trách nhiệm hay sợ ‘mất chỗ’ của một số người đứng đầu DN. Đây là vấn đề ‘tế nhị’ nhưng vẫn phải nhìn vào thực tế đó bởi bên cạnh yếu tố thể chế, thị trường thì vai trò của các cá nhân là rất quan trọng.”
Thực tế, doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa thường minh bạch hơn, hoạt động có hiệu quả. Do đó các cán bộ sợ “mất chỗ” thường là các cán bộ năng lực kém.
Do đó Chính phủ cần phải quy định trách nhiệm phân cấp rõ ràng hơn và có chế tài cũng đủ mạnh đối với các hành vi gây chậm tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn. Nhưng thời gian qua chưa có một trường hợp nào bị xử sử lý. Việc xử lý không nghiêm với những người đứng đầu DN cổ phần hóa, cơ quan đại diện cổ phần hóa của Nhà nước… đã dẫn đến sự chậm trễ kéo dài như trong thời gian qua.