Tăng trưởng mạnh, nhưng quy mô nhỏ, ngành nhựa "ốm nặng" vì dịch bệnh

(khoahocdoisong.vn) - Hơn 50% doanh nghiệp nhựa đã phải đóng cửa hoặc sản xuất cầm chừng, nguy cơ không thực hiện được đơn hàng, giao hàng chậm hoặc bị hủy đơn hàng. Dự báo, tình hình những tháng cuối năm của ngành này cực kỳ khó khăn.

3.000 doanh nghiệp, 300.000 lao động điêu đứng vì dịch

Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA) đã có văn bản gửi Thủ tướng và các Bộ ngành, kiến nghị một số đề xuất để ổn định sản xuất trong tình hình dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, nhất là tại TPHCM và các tỉnh phía Nam. Tại văn bản này, VPA cho biết, ngành nhựa Việt Nam hiện có khoảng gần 3.000 doanh nghiệp với hơn 300.000 lao động. Trong đó, 70% doanh nghiệp hoạt động tập trung tại TPHCM và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Tây Ninh. Dịch Covid-19 phức tạp đã làm nhiều doanh nghiệp trong ngành điêu đứng.

Hiện, hơn 50% doanh nghiệp ngành nhựa đang phải đóng cửa ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng do không đáp ứng được quy định "3 tại chỗ", "1 cung đường, 2 điểm đến" và nguy cơ không thực hiện được đơn hàng, giao hàng chậm hoặc bị khách hàng hủy đơn. Tổn thất không chỉ về kinh tế mà còn về uy tín với khách hàng, thậm chí đã có khách hàng chuyển đơn hàng đi nước khác. 

Ông Hồ Đức Lam, Chủ tịch VPA kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành một số đề xuất hỗ trợ. Trong đó, VPA đề xuất được giãn nợ vay ngân hàng cho các doanh nghiệp trong 6 tháng tới với các khoản vay ngắn hạn và dài hạn. Vì hiện rất nhiều doanh nghiệp nằm trong khu phong tỏa, cách ly, hoạt động sản xuất chỉ đạt 30%, tốt nhất cũng chỉ 50%, ảnh hưởng đến doanh thu, dòng tiền. 

Bên cạnh đó, VPA cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chỉ đạo rà soát, giảm từ 2 - 3% lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp khó khăn. Đồng thời, Chính phủ và các cơ quan chức năng xem xét giữ nguyên mức thuế suất nhập khẩu nguyên liệu nhựa PP là 3% như hiện nay. VPA cũng kiến nghị Chính phủ thanh kiểm tra, can thiệp về giá và phí vận tải biển tăng đột biến trong hơn một năm qua. Bên cạnh đó, đề nghị các hãng tàu cho kéo dài thời gian lưu bãi bằng thời gian lưu container là 14 - 21 ngày, để doanh nghiệp tránh phát sinh chi phí. 

Ngoài các đề xuất trên, VPA đề cập đến việc bỏ quy định chỉ hàng hóa thiết yếu mới được lưu thông. Thay vào đó là cho phép hàng hóa lưu thông bình thường nếu đảm bảo phòng chống dịch, trừ những hàng hóa cấm kinh doanh hoặc những hàng hóa hạn chế kinh doanh theo quy định (như ý kiến đề xuất của Bộ Công Thương ngày 27/7/2021).

Đặc biệt, bổ sung các quy định cụ thể đối với trường hợp người lao động được về nhà, có cam kết của doanh nghiệp với địa phương, người lao động với doanh nghiệp và di chuyển bằng phương tiện cá nhân giữa nơi ở của gia đình và cơ sở sản xuất, kinh doanh (đảm bảo các biện pháp an toàn tương tự trường hợp F1 tự cách ly tại gia đình và di chuyển theo tuyến cố định, không dừng đỗ dọc đường).

VPA cũng kiến nghị bổ sung doanh nghiệp nhựa vào nhóm ưu tiên tiêm văcxin, bên cạnh các ngành điện tử, dệt may, da giày, ô tô, thép, chế biến nông sản, thực phẩm.

Các sản phẩm nhựa Việt Nam hầu hết nằm ở phân khúc tầm thấp nên các công ty quy mô nhỏ và vừa ít chú trọng đến việc đầu tư công nghệ, máy móc hiện đại.

Các sản phẩm nhựa Việt Nam hầu hết nằm ở phân khúc tầm thấp nên các công ty quy mô nhỏ và vừa ít chú trọng đến việc đầu tư công nghệ, máy móc hiện đại.

Dư địa phát triển còn tốt

Theo Bộ Công Thương, giai đoạn 2010 – 2020, nhựa là một trong những ngành công nghiệp tăng trưởng cao nhất Việt Nam, với mức tăng hàng năm từ 16 – 18% (chỉ sau viễn thông và dệt may), có những mặt hàng tốc độ tăng trưởng đạt gần 100%/năm. Hiện nay, các sản phẩm nhựa của Việt Nam đang có mặt tại gần 160 thị trường trên thế giới.

Thị trường xuất khẩu truyền thống của các công ty nhựa Việt Nam là Nhật Bản, Mỹ, một số nước thuộc khu vực châu Âu (Đức, Hà Lan…) và ASEAN (Campuchia, Indonesia, Philippines…). Gần đây, Hàn Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn của nhựa Việt Nam.

Thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, 6 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu nhóm hàng sản phẩm từ nhựa tăng tới 41,5% so với cùng kỳ năm 2020, đạt gần 2,33 tỷ USD, chiếm 1,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại của cả nước. Nhóm hàng sản phẩm từ nhựa của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Mỹ, chiếm tới 36,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Sau đó là thị trường Nhật Bản đạt 331,53 triệu USD, chiếm 14,3%.

Tuy nhiên, xuất khẩu nhựa của Việt Nam chủ yếu đến từ nhóm những công ty FDI (chiếm 60% giá trị xuất khẩu toàn ngành). Những công ty này sử dụng công nghệ tiên tiến, đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng của các thị trường nước ngoài. Sản phẩm xuất khẩu của nhựa Việt Nam chủ yếu vẫn là bao bì túi nhựa, hoặc phụ kiện, linh kiện có giá trị gia tăng thấp.

Mặc dù triển vọng xuất khẩu của ngành nhựa Việt Nam được hỗ trợ tích cực bởi các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã tham gia, nhưng đại diện Bộ Công Thương nhấn mạnh, ngành nhựa Việt Nam vẫn đối mặt với những hạn chế tới từ thị trường xuất khẩu. Cụ thể như xu hướng chuyển dịch sang sử dụng bao bì thân thiện với môi trường tại châu Âu ngày một lan rộng, trong khi Mỹ vẫn áp thuế chống phá giá lên mặt hàng túi nhựa PE nhập từ Việt Nam.

Hiện còn không ít hạn chế cản trở sự phát triển của ngành công nghiệp nhựa Việt Nam. Nguyên liệu đầu vào chính của ngành nhựa là các bột nhựa và hạt nhựa PE, PP, PVC, PS và PET, được sản xuất chủ yếu từ dầu, khí, than. Trong đó 75 - 80% nguyên liệu và phụ liệu đầu vào phải nhập khẩu. Do nguồn cung trong nước hiện nay chỉ có thể đáp ứng khoảng 1 triệu tấn nguyên phụ liệu (chủ yếu là nhựa PVC, PET và PP). Đặc biệt, nguồn cung nguyên liệu nhựa tái sinh và công nghiệp hỗ trợ ngành nhựa chưa phát triển…

Đáng chú ý, theo Bộ Công Thương, các sản phẩm nhựa Việt Nam hầu hết nằm ở phân khúc tầm thấp, các công ty chủ yếu có quy mô nhỏ và vừa (chiếm hơn 90% trong tổng số 2.000 công ty nhựa), nên ít chú trọng đến việc đầu tư công nghệ, máy móc hiện đại. Bên cạnh đó, các công ty vừa và nhỏ thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay do những hạn chế về tài sản đảm bảo, chi phí lãi vay cao…

Chỉ một số rất ít các công ty có quy mô sản xuất lớn chịu đầu tư chuyên sâu và có những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng. Điều này khiến sức cạnh tranh của sản phẩm nhựa Việt Nam trên thị trường không lớn, đặc biệt là những sản phẩm nhựa gia dụng.

Theo Đời sống
Giá thép cuộn xây dựng giảm 100.000 đồng/tấn

Giá thép cuộn xây dựng giảm 100.000 đồng/tấn

Giá thép cuộn xây dựng đang được các nhà sản xuất trong nước điều chỉnh giảm thêm 100.000 đồng/tấn. Với việc giảm giá lần thứ ba của thép cuộn, tính từ đầu năm 2024 tới nay, tổng mức giảm lũy kế là 500.000 đồng/tấn.
back to top