Theo dõi phản ứng sau tiêm
Văcxin nên được tiêm bắp và nên sử dụng kim cỡ nhỏ nhất hiện có (cỡ 25 ‐ 27), nếu có thể.
Người bệnh nên tạo áp lực lên vết tiêm ít nhất 10 phút sau khi tiêm để giảm chảy máu và sưng tấy. Ngoài ra, nên tự kiểm tra/sờ nắn vùng tiêm trong vài phút và 2 ‐ 4 giờ sau đó để đảm bảo rằng không có tụ máu chậm. Cảm giác khó chịu ở cánh tay trong 1 ‐ 2 ngày sau khi tiêm là không đáng ngại trừ khi nó xấu đi và kèm theo sưng tấy.
Người bệnh có tiền sử dị ứng với các yếu tố đông máu cô đặc có thời gian bán hủy kéo dài có chứa polyethylene glycol (PEG) nên thảo luận về việc lựa chọn văcxin với bác sĩ vì một số văcxin có chứa PEG làm tá dược.
Người bệnh có các phản ứng dị ứng hoặc phản vệ với các sản phẩm máu bao gồm yếu tố cô đặc, huyết tương và tủa lạnh, nhưng chưa có phản ứng với các loại văcxin trước đó, không có nguy cơ cao hơn toàn bộ dân số đối với phản ứng với văcxin Covid-19.
Người bệnh cần báo cho trung tâm điều trị bệnh máu khó đông bất kỳ tác dụng phụ nào (ví dụ như tụ máu, phản ứng dị ứng). Hãy liên hệ với bác sĩ hoặc đến phòng cấp cứu bệnh viện gần nhất ngay lập tức nếu bị phản ứng dị ứng (sốt, nóng, mẩn đỏ, phát ban ngứa trên da, khó thở hoặc sưng mặt hoặc lưỡi) vì những triệu chứng đó có thể đe dọa tính mạng.
Lưu ý với từng thể bệnh
Đối với người bệnh máu khó đông nặng/trung bình hoặc bệnh von Willebrand loại 3 (vWD), bất kể có được điều trị dự phòng thường xuyên hay điều trị theo yêu cầu, nên tiêm văcxin sau khi tiêm yếu tố VIII/IX, hoặc sau khi tiêm chế phẩm chứa yếu tố von Willebrand.
Các loại văcxin không được chứng minh là có khả năng hình thành chất ức chế yếu tố VIII hoặc IX ở người bệnh máu khó đông. Đặc biệt, văcxin chống lại virus có bộ gene RNA (cúm, quai bị, sởi, rubella), như SARS‐CoV-2, không tăng cường hình thành chất ức chế ở mô hình động vật.
Người bệnh máu khó đông mức độ nhẹ có nồng độ yếu tố VIII hoặc IX ban đầu dưới 10% cũng có thể cần điều trị dự phòng chảy máu trước khi tiêm phòng và nên tham khảo ý kiến của trung tâm hemophilia. Đối với những người bệnh có mức yếu tố VIII hoặc IX cơ bản trên 10%, không cần có biện pháp phòng ngừa chảy máu.
Người bệnh đang sử dụng emicizumab (có hoặc không có chất ức chế) có thể được chủng ngừa bằng cách tiêm bắp bất cứ lúc nào mà không cần thêm biện pháp dự phòng chảy máu. Tùy thuộc vào mức độ hoạt động vWF ban đầu, người bệnh vWD loại 1 hoặc 2 nên sử dụng các liệu pháp (DDAVP, axit tranexamic) với sự tư vấn của trung tâm hemophilia.
Tất cả người bệnh rối loạn chảy máu hiếm gặp (bao gồm cả những người bị giảm tiểu cầu và/hoặc rối loạn chức năng tiểu cầu) nên được tiêm chủng. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của rối loạn, trung tâm điều trị sẽ quyết định có cần hỗ trợ cầm máu hay không.
Không có chống chỉ định cụ thể đối với việc tiêm chủng liên quan đến các biến chứng của bệnh hemophilia và các rối loạn chảy máu khác hoặc các liệu pháp điều trị bệnh. Dung nạp miễn dịch, điều trị viêm gan C, HIV và các bệnh lý khác không chống chỉ định tiêm chủng.
Không chống chỉ định tiêm văcxin cho bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế miễn dịch (cortisone, các thuốc ức chế miễn dịch khác), nhưng phản ứng miễn dịch và khả năng bảo vệ khỏi nhiễm trùng của họ có thể bị giảm.
Tại Việt Nam, người bệnh giảm tiểu cầu và rối loạn đông máu thuộc nhóm đối tượng trì hoãn tiêm chủng văcxin phòng Covid-19 của AstraZeneca theo Quyết định số 1624/QĐ-BYT ngày 18/3/2021 về việc ban hành hướng dẫn tạm thời khám sàng lọc trước tiêm chủng văcxin phòng Covid-19 của AstraZeneca. Đối với các loại văcxin phòng Covid-19 của các hãng khác, cần chờ những hướng dẫn/khuyến cáo tiếp theo từ Bộ Y tế.
TS.BS Nguyễn Thị Mai (Giám đốc Trung tâm Hemophilia, Viện Huyết học - Truyền máu T.Ư)