Ảnh minh họa.
Tai là cửa ngõ của thận
Tai mũi họng hình thành hẳn một chuyên khoa có bệnh viên tai mũi họng riêng, chứng tỏ có rất nhiều bệnh chứng về tai mũi họng. Chỉ riêng tai, theo giải phẫu thuật phân ra: Loa vành tai, tai ngoài, tai trong. Tai trong có xương búa xương đe xương bàn dây, có hệ thống vành bán khuyên chứa dịch lỏng hướng về ba chiều, có màng nhĩ, có thần kinh sọ não số 8 để tiếp nhận phân tích âm thanh.
Như vậy, nói đến tai là nói đên bệnh lý hay sự mất điều hòa của các bộ phận trên đều gây nên bệnh.Trong phạm vi bài chỉ chữa chứng: Đau tai, tai ù, tai điếc.
Tai ù thì nghe như tiếng ve kêu hoặc nhỏ hoặc to; khi mệt quá hoặc giận dữ thì tai càng ù mạnh. Chứng này có hư, có thực; hư thì thấy có triệu chứng đầu choáng, mắt hoa, tim rung động, eo lưng nhức, lưỡi đỏ nhợt, mạch tế; thực thì có cả các hiện tượng đau nhức, mặt đỏ, hay giận, lòng buồn bực, ít ngủ, lưỡi đỏ hoặc rêu vàng nóng, mạch huyền.
Tai điếc phần nhiều do tai ù lâu mà thành ra không nghe tiếng động bên ngoài. Tai điếc cũng có chứng hư, chứng thực khác nhau, còn chứng trạng kèm theo cũng giống như tai ù. Người già tai điếc là vì tinh khí không đủ, phần nhiều do hạ nguyên suy yếu. Còn như tự nhiên bị điếc, phần nhiều thuộc can đởm bị hỏa nhiễu động lấp thanh khiếu.
Nguyên nhân gây bệnh ở tai có thể do nhiễm trùng, nấm, nhiễm độc, dị ứng, chấn thương hay lão hóa … Đông y cho tai là cửa ngõ của tạng thận. Thận khai khiếu ra tai. Nhưng lại có đường kinh như: kinh Đởm, tam tiêu, đi trước và vòng quanh tai nên khi nói bệnh ở tai thì thầy thuốc chú ý tới tạng thận, can, đởm. Khi chữa có thể dùng châm cứu Huyệt ế phong, thính hội.
Cũng có thể dùng huyệt phong trì, giác tôn, hợp cốc hoặc châm: e phong, thính cung … Dùng thuốc có thể chọn các vị: Hoàng cầm 12g, sài hồ 12g, long đởm 8g, bán hạ 10g, hạ khô thảo 12g, sinh khương 3 lát, chi tử 8g, sắc uống.
Chữa theo hư chứng và thực chứng
Ù tai là chứng bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng hay gặp hơn ở người cao tuổi. Tai ù thường chia ra thực chứng và hư chứng. Nếu đột ngột xảy ra ù tai là thực chứng. Nếu tai ù đến sau các bệnh gây tổn thương tâm, can, tỳ, phế, thận, hoặc mất máu, suy nhược là thuộc hư chứng. Nếu tai ù ở người mất ngủ thường có biểu hiện miệng đắng, rêu lưỡi vàng nhạt…
Đông y cho tai ù là do đàm hỏa cản trở, có thể dùng các vị thuốc: Liên kiều 12g, chi tử 8g, cúc hoa 8g, mẫu đơn bì 8g, tang diệp 12g, xuyên tiêu 8g, quả lâu bì 10g, sắc uống.
Trường hợp ù tai không thường xuyên, khi mệt ù phảng, người mệt mỏi, hơi thở ngắn, giảm thính lực…có thể dùng: Xương bồ 8g, sài hồ 12g, mộc hương 12g, xuyên khung 12g, ô dược 10g, thanh bì 10g, hoàng kỳ 16g, mạn kinh 10g, tô diệp 12g, đại phúc bì 10g, sắc uống.
Nều ù tai kiêm đau thắt lưng mỏi gối, váng đầu hoa mắt, người mệt mỏi…, có thể dùng bài: Thục địa 12g, ngưu tất 12g, ngũ vĩ 8g, mạch môn 12g, thiên môn 12g, huyễn hoái 8g, quy bản 10g, từ thạch 6g, sơn thù 8g, bạch thược 12g, sắc uống.
Nếu ù tai có cảm giác có tiếng ve kêu trong tai, mắt khô, choáng váng … móng tay chân khô, đó là can huyết không đủ, có thể dùng bài thuốc: Cát lâm 10g, sơn thù 8g, hoàng kỳ 16g, sát căn 20g, phục linh 8g, đương quy 12g, trư linh 8g, thục địa 12g, bạch thược 12g, cảm thảo 6g, xuyên khương 12g, sắc uống.
Nếu ù tai lâu, giảm thính lực, bệnh kéo dài, mệt mỏi, người sợ lạnh chân tay lạnh, đau lưng mỏi gối tiểu nhiều, són đái, liệt dương…cần chú ý thận dương. Có thể dùng các vị thuốc sau: Lộc nhung 6g, ba kích 12g, bạch thược 12g, từ thạch 6g, nhục thuy dung 8g, nhục quế 8g, đỗ trọng 16g, mẫu lệ 10g, ngũ vĩ 8g, đương quy 12g, độc hoạt 12g. Tất cả đem tán bột luyện mật thành viên uống.
Để phòng bệnh ở tai cần giữ vệ sinh tai nhưng không tùy tiện ngoáy tai bằng các vật cứng vào lỗ tai. Không để nước chảy vào trong tai trong lúc tắm, rửa, nếu không may nước vào tai thì lấy tăm quân bông khô sạch lau nhiều lần cho khô. Khi thấy có hiện tượng bất thường trong tai cần đi khám ngay. Nhiều khi do tai tăng xuất tiết, dáy tai thành cục lớn chính là nguyên nhân gây ù tai và giảm thính lực. Lấy dáy tai, hết ù.
GS.TS Dương Trọng Hiếu (Bệnh viện Y học cổ truyền TƯ)