Ô tô điện VF e34 của VinFast.
Theo nhiều chuyên gia, ô tô điện đang trở thành xu hướng tương lai của ngành ô tô thế giới khi một loạt các nước đưa ra tuyên bố về kế hoạch từ bỏ, chấm dứt hoàn toàn phương tiện sử dụng động cơ đốt trong trên lãnh thổ của mình.
Các hãng xe cũng đua nhau điện khí hóa các sản phẩm từ đó, nhiều mẫu ô tô điện ra đời. Tại Việt Nam, mới đây, hãng xe Việt VinFast cũng ra mắt mẫu ô tô điện VF e34 với mức giá 690 triệu đồng và khách hàng chỉ cần bỏ ra 10 triệu đồng để đặt cọc.
Ngay khi sự kiện này xảy ra, rất đông người dân bày tỏ sự quan tâm đến xe điện, chỉ sau 12h ra mắt, VF e34 đã có 3.692 khách hàng đặt cọc mua xe, trở thành mẫu xe có số lượng đặt trước trong vòng 12 giờ lớn nhất từ trước tới nay trên thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên, ô tô điện chưa thực sự phổ biến ở các nước trên thế giới như ô tô sử dụng động cơ đốt trong bởi tính cơ động hạn chế và giá thành cao. Tại Việt Nam, đây cũng sẽ là một trở ngại lớn trong việc tiếp cận khách hàng của xe điện.
Theo chuyên gia ô tô Nguyễn Minh Đồng, giá xe điện cao chủ yếu do chi phí pin. Chi phí nhiên liệu của xe điện tiết kiệm hơn so với ô tô sử dụng động cơ đốt trong khi được đo bằng km trên mỗi đơn vị năng lượng tiêu thụ, nhưng tổng số km của xe điện là thấp hơn nhiều so với xe sử dụng động cơ đốt trong trên một bình chứa nhiên liệu đầy hoặc sạc đầy.
Trong tương lai khi công nghệ pin phát triển, chi phí pin giảm đi sẽ giúp hạ giá thành xe điện xuống.
"Hiện nay, để giúp người dân dễ dàng tiếp cận các sản phẩm xe điện, một số nước trên thế giới đã có những chính sách hỗ trợ như hỗ trợ giá (tặng tiền khi mua xe) như tại Đức hỗ trợ đến 9.000 euro (khoảng 238 triệu đồng), giảm thuế, giảm phí bảo hiểm, miễn phí chỗ đỗ xe,...", ông Đồng cho biết.
Nhiều nước trên thế giới có chính sách hỗ trợ khách mua xe điện như trợ cấp tiền mặt, giảm thuế, phí...
Xe Giao thông sẽ điểm qua một vài chính sách hỗ trợ khách mua xe điện tại các nước trên thế giới:
Đức
Năm 2016, Đức miễn thuế lưu hành hàng năm trong vòng 10 năm cho xe điện. "Đồng thời cũng đưa ra một khoản trợ cấp trực tiếp cho người mua xe điện là tư nhân ở mức 5.000 euro và người mua là doanh nghiệp ở mức 3.000 euro để bù vào giá mua trả trước của chiếc ô tô này. Các ưu đãi sẽ giảm dần 500 euro mỗi năm cho đến năm 2020", chuyên gia ô tô Nguyễn Minh Đồng cho biết.
Đến tháng 7/2020, Chính phủ Đức đã tăng gấp đôi gói hỗ trợ kinh tế cho những người sử dụng xe điện. Cùng với sự góp sức của các hãng sản xuất ô tô, mỗi người dân Đức khi mua xe sẽ được nhận trợ cấp khoảng 9.000 Euro (238 triệu đồng).
Tuy nhiên, số tiền này không được thanh toán hết một lần khi mua xe mà sẽ được khấu trừ dần dần.
Pháp
Từ năm 2008, Pháp đã thiết lập một hệ thống tiền thưởng để cung cấp các ưu đãi cho việc mua xe điện. Số tiền thưởng thay đổi hàng năm.
Năm 2017, Pháp đề xuất cung cấp khoản tiền thưởng trị giá 10.000 euro để khuyến khích loại bỏ xe diesel hơn 10 năm tuổi, trong đó, phần tiền thưởng cho việc mua xe điện là 6.000 euro và phần thưởng bổ sung là 4.000 euro.
Mỹ
Hoa Kỳ đã cấp tín dụng thuế cho các xe điện có giá trị từ 2.500 - 7.500 đô la Mỹ tùy thuộc vào dung lượng pin trong năm 2008.
Đến năm 2014, hơn 37 tiểu bang đã thiết lập các ưu đãi và miễn thuế này cho ô tô điện. Ngoài ra còn áp dụng các ưu đãi khác cho chủ sở hữu xe điện như đỗ xe miễn phí và đi vào làn đường có mật độ xe cao.
Ngoài ra chính phủ cũng đã cam kết tài trợ cho phát triển công nghệ, sản xuất xe điện mới và lắp đặt thêm cơ sở hạ tầng trạm sạc cho mẫu xe này.
Hà Lan
Từ ngày 1/7/2020, Chính phủ Hà Lan cũng xác nhận sẽ hỗ trợ 4.000 euro (khoảng 102 triệu đồng) cho người dân mua xe điện mới, đối với người mua xe điện cũ, mức hỗ trợ là 2.000 euro (khoảng 51 triệu đồng).
Điều kiện để nhận được hỗ trợ trên là chiếc xe sắp mua phải có giá tối đa khoảng 45.000 euro, tương đương giá của những mẫu xe ô tô điện giá rẻ trên thị trường.
Ngoài gói hỗ trợ tài chính, Chính phủ Hà Lan hiện đang nghiên cứu thêm những biện pháp kích thích người dân sử dụng xe điện như: cung cấp những bản nâng cấp phần mềm miễn phí; lắp đặt thêm nhiều trạm kiểm tra, bảo trì pin cho những phương tiện này...
Anh
Chính phủ Anh cam kết chi 290 triệu bảng Anh thúc đẩy ngành công nghiệp phương tiện sạch. Anh sẽ trợ cấp khoảng 35% trong tổng giá trị ô tô (tối đa là 4.500 bảng Anh tùy loại phương tiện) và 20% giá trị ô tô tải (lên tới 8.000 bảng Anh).
Ngoài ra, xe chạy hoàn toàn bằng điện sẽ được miễn hoàn toàn thuế đường bộ hàng năm.
Nhật Bản
Tại Nhật Bản, chương trình ưu đãi đầu tiên được giới thiệu vào năm 1996, được sửa đổi vào năm 1998 và kết thúc vào năm 2003.
Khoản trợ cấp cho xe điện được đưa ra dựa trên (tối đa) 50% chi phí gia tăng của xe điện so với giá của xe chạy xăng, dầu. Từ tháng 4/2009 - 3/2010, một chương trình ưu đãi được thành lập để cung cấp hai loại trợ cấp mua hàng cho người mua xe điện.
Loại trợ cấp đầu tiên được trao cho những người mua xe điện mới mà không cần loại bỏ một chiếc xe đã qua sử dụng ở mức 100.000 yên cho một chiếc xe tiêu chuẩn hoặc nhỏ và 50.000 yên cho một chiếc xe Kei (mini).
Loại trợ cấp thứ hai được trao cho những người mua EVs mới và đồng thời loại bỏ chiếc xe 13 năm trở lên với giá 250.000 yên cho một chiếc xe tiêu chuẩn hoặc nhỏ và 125.000 yên cho một chiếc xe Kei.
Hàn Quốc
Hàn Quốc đã công bố kế hoạch tăng thị phần của xe điện thông qua việc cải thiện dung lượng pin, dung lượng lưu trữ và thiết lập một mạng lưới các trạm sạc vào tháng 7/2016.
Chính phủ nước này cũng có khoản trợ cấp một lần 14 triệu won cho người mua xe điện. Ngoài ra, chủ sở hữu xe điện cũng có thể được hưởng lợi từ việc giảm thuế, phí bảo hiểm, phí đường cao tốc và phí đỗ xe.
Trung Quốc
Khác với các nước dành trợ cấp trực tiếp cho người mua xe, từ 1/6/2010, chính phủ Trung Quốc lại trợ cấp trực tiếp cho các nhà sản xuất ô tô, từ đó, giúp các hãng xe chia sẻ lợi ích với người tiêu dùng bằng việc giảm giá xe điện. Và những ưu đãi này được cung cấp theo năm.
Ưu đãi cho việc áp dụng EVs tại Trung Quốc năm 2017 (Đơn vị: nhân dân tệ) |
||
Số dặm trên một lần sạc đầy |
Hoàn tiền | Giới hạn trên của chính quyền địa phương ưu đãi |
100 - 150km |
20.000 | Không quá 50% số tiền khuyến khích được cung cấp bởi chính phủ trung ương |
150 - 200km |
36.000 | |
Lớn hơn 250km |
44.000 |