Đề xuất này được nhóm nghiên cứu Đại học Kinh tế - Luật (UEL) - Đại học Quốc gia TP.HCM đưa ra ngày 6/9, khi công bố kết quả nghiên cứu “Kiến tạo động lực phục hồi kinh tế TP.HCM giai đoạn Covid-19 lần 4”. Nhóm kiến nghị nhiều chính sách phục hồi kinh tế tại TP.HCM khi kết thúc giãn cách.
Ưu tiên tốc độ hỗ trợ, chấp nhận sai lệch nhất định
Nhóm nghiên cứu nhận định kinh tế TP.HCM đã chịu tổn thất nghiêm trọng trong thời gian giãn cách, khiến cá nhân, hộ gia đình bị ảnh hưởng; lao động, việc làm suy giảm mạnh; doanh nghiệp kiệt quệ tài chính.
Hai giả định được nhóm đưa ra. Một là TP.HCM và các tỉnh giáp ranh cơ bản kiểm soát được đợt dịch lần thứ 4 trong tháng 9 để có thể quay trở lại hoạt động ở điều kiện “bình thường mới” trong tháng 10.
Một trong hai đề xuất được nhóm nghiên cứu đưa ra là đến tháng 12, cơ bản 70%-80% người dân Việt Nam được tiêm vaccine ít nhất 1 mũi. Ảnh: Phạm Ngôn. |
Hai là vaccine sẽ tiếp tục được triển khai trên diện rộng để đến đầu quý IV/2021 đạt độ bao phủ 70-80% người dân cư ngụ tại TP.HCM và các tỉnh giáp ranh được tiêm đủ 2 mũi. Đến tháng 12/2021, cơ bản 70-80% người dân Việt Nam được tiêm vaccine ít nhất 1 mũi.
Từ dữ liệu phân tích, nhóm nghiên cứu đưa ra ba kịch bản ước tính tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách năm 2021 của TP.HCM, ước tính cho thấy khả năng tăng trưởng suy giảm và cân đối ngân sách sẽ vô cùng căng thẳng.
“Nếu không có sự can thiệp kịp thời của Nhà nước, tỷ lệ thất nghiệp của TP.HCM và khu vực phía Nam sẽ tăng mạnh trong thời gian tới” - các chuyên gia cho rằng tốc độ phục hồi kinh tế của TP.HCM phụ thuộc lớn vào tốc độ, quy mô hỗ trợ từ Chính phủ.
Để chính sách hỗ trợ đạt hiệu quả tức thời, nhóm nghiên cứu cho rằng cần đặt mục tiêu ưu tiên tốc độ hỗ trợ, chấp nhận một sự sai lệch nhất định ở đối tượng thụ hưởng.
Các gói hỗ trợ cần tập trung vào hai hướng. Thứ nhất, hỗ trợ trực tiếp cho tổng cầu bằng cách cắt giảm thuế, tăng chi đầu tư, chi hỗ trợ việc làm, chi hỗ trợ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, đảm bảo an sinh xã hội. Thứ hai, hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, hạn chế đóng cửa/phá sản, chia sẻ chi phí, bảo lãnh và cho vay, cung cấp dòng vốn chi phí thấp.
Kiến nghị tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách của TP.HCM từ 2022
Nhấn mạnh vai trò và vị trí quan trọng của nền kinh tế TP.HCM đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng như cả nước, các chuyên gia cho rằng sự hỗ trợ nguồn lực từ ngân sách Trung ương cần đóng vai trò then chốt, bao gồm cả hỗ trợ tức thời trong ngắn hạn, cả hỗ trợ mang tính cấu trúc khi kết thúc giãn cách và tiếp tục kéo dài trong trung hạn.
Để kiến tạo phục hồi kinh tế TP.HCM, nhóm nghiên cứu đề xuất Quốc hội, Chính phủ áp dụng cơ chế đặc thù để kiến tạo động lực nhằm giúp quá trình hồi phục kinh tế của TP diễn ra nhanh nhất có thể, tạo tác động lan tỏa kéo theo tăng trưởng của vùng kinh tế động lực phía Nam và cả nước.
Nhóm nghiên cứu đề xuất cơ chế đặc thù để kiến tạo động lực cho TP.HCM nhằm giúp quá trình hồi phục kinh tế của TP.HCM diễn ra nhanh nhất có thể. Ảnh: Phạm Ngôn. |
Theo các chuyên gia, giải pháp phát hành trái phiếu Chính phủ trong điều kiện lãi suất trái phiếu Chính phủ đang ở mức thấp và chuyển giao nguồn vốn này cho TP.HCM sử dụng với trách nhiệm trả lãi vay được đánh giá là có tính khả thi và đem lại hiệu quả đầu tư.
Ngoài ra, từ năm ngân sách 2022, kiến nghị Trung ương cho phép tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách TP.HCM từ 18% lên 23% và cho phép nâng trần nợ công của TP.HCM để có thể phát hành trái phiếu chính quyền đô thị, giúp TP.HCM có đủ nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Song song với chính sách từ Trung ương, TP.HCM cần phải kiến tạo động lực thông qua gói hỗ trợ tái tạo việc với đề xuất hỗ trợ 25% lương tối thiểu vùng cho doanh nghiệp duy trì đạt ngưỡng tỷ lệ lao động, thiết lập chương trình kích cầu mới, xây dựng chợ đầu mối trực truyến, nâng cao năng lực hệ thống y tế... Quy mô gói hỗ trợ của TP.HCM khoảng 22.300 tỷ đồng - tương đương 1,7% GRDP của TP.
Trên phạm vi cả nước, nhóm nghiên cứu đề xuất các chính sách về an sinh xã hội, hỗ trợ tái tạo việc làm, chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá với những phương án khác nhau, có quy mô tối thiểu 120.000 tỷ đồng và tối đa lên đến 250.000 tỷ đồng (4% GDP).
Nhóm nghiên cứu nhấn mạnh đảm bảo được tính nhất quán của các chính sách còn quan trọng hơn so với các chính sách hỗ trợ khẩn cấp.