Dùng thuốc đúng bệnh
Khi nói vị thuốc có thể điều trị được chứng nhiệt có nghĩa là vị thuốc đó có đầy đủ tính hàn và tính lương. Đối với bệnh tật cũng chia ra làm hai dạng sốt nóng và nóng ở hai mức độ khác nhau. Nếu chứng là đại ôn (cực nóng) thì phải dùng thuốc hàn để hạ nhiệt, nhưng khi bệnh chỉ ở mức độ ôn (nóng) thì chỉ dùng thuốc lương là có thể điều trị được. Đó là những nguyên tắc chung. Nhưng khi vận dụng vào cụ thể thì ngoài chứng bệnh còn căn cứ vào thể trạng của bệnh nhân mà quyết định dùng thuốc. Lại còn có vị thuốc không phải ôn, không phải nhiệt, không phải hàn, không phải lương mà tính của nó lại là bình. Đối với những vị thuốc như vậy ngoài dùng để bổ dưỡng khi điều trị cần hết sức cân nhắc.
Sách Nội kinh tố vấn nói: “Người bị chứng hàn thì dùng thuốc nhiệt, người bị chứng nhiệt thì dùng thuốc hàn đó là nguyên tắc chữa bệnh của Đông y. Do đó, người thầy thuốc phải nắm vững nguyên tắc hàn, nhiệt, ôn, lương, bình của từng vị thuốc để vận dụng vào việc phòng bệnh và chữa bệnh. Khi bệnh chứng ở kinh dương minh xuất hiện chứng nóng (sốt cao) thì phương pháp điều trị phải dùng thuốc hàn lương như thạch cao, tri mẫu để tả hỏa, thanh nhiệt, nếu dùng nhầm sang thuốc ôn nhiệt, thì làm cho hỏa càng bốc lên, bệnh nhân đã tổn hao chân khí, khô kiệt tân dịch, do sự nhầm lẫn đó của thầy thuốc, càng làm cho bệnh nhân sức khỏe kiệt quệ dẫn đến tử vong. Hay khi bệnh thuộc kinh thiếu âm xuất hiện chứng âm hàn, tay chân quyết nghịch, sắc mặt trắng nhợt, mạch vi tế nhược, khi điều trị người thầy thuốc phải dùng thuốc ôn nhiệt như phụ tử, nhục quế, can khương để trợ dương, khu hàn. Nếu dùng nhầm thuốc hàn lương thì bệnh nhân trở nên bại chứng mà tử vong”.
Ngũ vị - chua, cay, mặn, ngọt, đắng
Khi muốn biết được vị của dược liệu thì phải nếm, căn cứ vào vị giác để phân biệt, trong quá trình thực tiễn các thế hệ thầy thuốc Đông y trước đã phát hiện thấy giữa mùi, vị và tác dụng của vị thuốc có sự liên hệ chặt chẽ với nhau như một qui luật. Sách Nội kinh tố vấn nói: “ Cay thì tán, chua thì thu, ngọt thì hoãn, đắng thì rắn, mặn thì mềm”. Có nghĩa cay thì làm cho bệnh chứng tân tán, chua thì có tác dụng thu liễm, ngọt thì làm cho hòa hoãn, đắng làm cho rắn chắc lại, mặn làm cho mềm ra. Ngô Nghi Lạc đời nhà Thanh đã viết trong cuốn Bản thảo tòng tâm như sau: “ Những vị thuốc chua thì hay sáp hay thu. Vị đắng thì hay tả, hay táo, hay kiên. Vị ngọt thì hay bổ, hay hòa, hay hoãn. Vị cay thì hay tán, hay nhuận, hay đi lung tung. Vị mặn thì hay đi xuống, hay làm mềm vật rắn. Vị nhạt thì lợi khiếu, hay thấm, hay tiết”.
Ngũ vị cũng đóng vai trò quan trọng trong vận dụng dược liệu vào lâm sàng gồm: Vị cay thì hay tán cho nên vị cay phù hợp với thời kỳ đầu của chứng ngoại cảm để phát tán chứng phong hàn hoặc phong nhiệt. Thuốc có vị đắng thì hay tả, phù hợp với chứng thực nhiệt, để tả hỏa thanh nhiệt. Thuốc có vị chua thì thích hợp với sự thu liễm dùng để điều trị các chứng ra mồ hôi trộm, di tinh, ỉa chảy kéo dài… Thuốc có vị mặn thì nhuyễn kiên, thích hợp với điều trị các chứng táo bón, đờm đặc, tràng nhạc. Thuốc có vị ngọt thì hòa hoãn, bổ dưỡng, thích hợp với chứng hư nhược. Thuốc có vị nhạt thì dễ thấm, hay tiết thích hợp điều trị các chứng thủy thấp. Ngoài ra, trong ngũ vị cũng có nhiều vị thuốc kiêm vị như hương phụ thì tân hơi khổ, cam. Vị nhục quế thì tân cam. Vị huyền sâm thì khổ hàm. Các vị thuốc có kiêm vị thì trong khi sử dụng điều trị sự tác dụng của nó đôi lúc cũng phức tạp cho nên người thầy thuốc phải hết sức cân nhắc.
TTND.BS cao cấp Nguyễn Xuân Hướng (nguyên Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam)