Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Thói đời” - Kỳ 2: Hai bài Thói đời

(khoahocdoisong.vn) - Hai bài Thói đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như thơ của ông nói chung, nặng về nhân tình thế thái, triết lý đạo làm người, đúc kết giáo lý mà vẫn nóng hổi cảm xúc.

Hai bài Thói đời

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân, gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán và hai tập Trình Quốc công Bạch Vân thi tập và Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm).

Hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tập gồm 100 bài và 23 bài trong tập Bạch Vân Gia Huấn, mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế, lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời.

Mặc dù trong cảnh đời đen bạc, thay cho tiếng thở dài tuyệt vọng, như nhiều nhà thơ chán đời thuở xưa vẫn gửi vào thơ phú, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao và đấu tranh cho sự trong sạch của tâm hồn con người, lên án thói đời tráo trở, vụ lợi, chà đạp lên thủy chung, tình nghĩa.

Thơ ông, do vậy, nặng về nhân tình thế thái, triết lý đạo làm người. Chủ đề này vốn dễ khô khan, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vận dụng cách nghĩ, cách nói của nhân dân, giữ được tính sinh động thời sự của sự kiện, nên câu thơ đúc kết giáo lý mà vẫn nóng hổi cảm xúc. Một trong những bài thơ điển hình mang hơi thở đó của Nguyễn Bỉnh Khiêm là bài “Thói đời I”:

“Thế gian biến cải vũng nên đồi,

 Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi

 Còn bạc, còn tiền còn đệ tử

 Hết cơm, hết rượu hết ông tôi.

 Xưa nay đều trọng người chân thực,

 Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi.

 Ở thế mới hay người bạc ác,

 Giàu thì tìm đến khó tìm lui”.

Và bài “Thói đời II”:

“Vụng khéo nào ai chẳng có nghề

 Khó khăn phải lụy đến thê nhi

 Ðược thời, thân thích chen chân đến

 Thất thế, hương lân ngảnh mặt đi

 Thớt có hôi tanh, ruồi muỗi đậu

 Sanh không mật mỡ, kiến bò chi

 Ðời nay những trọng người nhiều của

 Bằng đến tay không, mấy kẻ vì”.

Hết cơm, hết rượu hết ông tôi

Thử phân tích bài I, ta thấy: Biến cải vũng nên đồi, chỉ những sự thay đổi lớn lao trong đời sống chính trị, xã hội, đời sống con người, thay đổi bộ mặt xã hội, thay đổi cảnh vật, thay đổi của lòng người.

Mặn, nhạt, chua, cay, ngọt, bùi, chỉ những trạng thái, tình cảnh, tình huống ngang trái trong cuộc sống đa đoan, tục luỵ, chìm nổi. Đệ tử, chỉ những kẻ dưới quyền, tay chân, thuộc hạ sống bám vào việc tâng bốc cấp trên. Kẻ đãi bôi, kẻ nói lời ngon ngọt lấy lòng, không thật, xảo ngôn.

Qua bài thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho thấy sự thật một trạng thái về bộ mặt của người đời, nơi đó, đầy rẫy những kẻ hám danh vụ lợi, tầm thường, vì miếng cơm, manh áo quên điều nhân nghĩa, dù trong tận đáy lòng, con người cũng biết trọng điều chân thật, ghét sự dối trá, gian manh; mà chỉ những tâm hồn sống từng trải nếm qua mọi cảnh đời mới thấu hiểu được.

Bài thơ có bố cục theo thể thơ Đường luật, thất ngôn bát cú: câu một và hai nêu rõ, cuộc đời luôn thay đổi, thăng trầm đầy vơi với mọi cảnh ngộ; câu ba và bốn nêu tâm lý, thói đời vụ lợi và phù thịnh, quên nhân nghĩa; câu năm và sáu nêu thiện ý của con người xưa nay ưa chân thật, ghét gian ngoan; câu bảy và tám nêu, có sống ở đời, mới rõ được nhân tình thế thái.

Mở đầu bài thơ, tác giả cho thấy cảnh đời luôn biến đổi tang thương, trong đó con người cũng từng trải qua bao cảnh ngộ đa đoan, trớ trêu, đau khổ và hạnh phúc… Nhưng không phải con người luôn giữ được bản chất thiện lương của mình. Mỗi thay đổi cũng xuất hiện đầy rẫy những cảnh ngộ lọc lừa, phản phúc, trắng trợn đến mức tàn nhẫn, phũ phàng: “Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử - Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi”.

(còn nữa)

Theo Đời sống
back to top