Tại sao tuổi cao trái tim lại mệt mỏi?

(khoahocdoisong.vn) - Mặc dù tim chỉ to bằng nắm tay, nặng trên 300g nhưng nó làm việc liên tục ngày và đêm, không có thời gian nghỉ. Người ta ước tính, suốt đời người, tim lần lượt đập cả gần ba tỷ nhịp, bơm ra cả triệu thùng máu, vì vậy đến một thời điểm nào đó hay do một bệnh thực thể chi phối, trái tim sẽ biểu hiện sự mệt mỏi thông qua sự nhanh hay chậm của nhịp tim.

Rối loạn nhịp nguy cơ gây suy tim

Nhịp tim phụ thuộc rất nhiều vào tuổi tác, giới tính, tình trạng sức khỏe, thời gian trong ngày. Buổi sáng trước khi thức giấc, nhịp thấp nhất. Khi hít thở vào, nhịp hơi nhanh hơn và khi thở ra, nhịp hơi chậm. Nhịp tim đều đặn là thời gian giữa hai nhịp phải bằng nhau. Nhịp tim bình thường đối với trẻ em dưới 1 tuổi là 100 - 160 nhịp/phút, trẻ từ 1 - 10 tuổi là 70 - 120 nhịp/phút, người từ 10 tuổi trở lên là 60 - 120 nhịp/phút, vận động viên thể thao là 40 - 60 nhịp/phút. Phụ nữ có nhịp tim nhanh hơn nam giới khoảng 5 lần tim đập do quả tim phụ nữ nhẹ hơn nên co bóp nhanh và nhiều hơn.  Dựa vào nhịp tim người ta biết rất chi tiết về tình trạng sức khỏe, đặc biệt dựa vào nhịp tim người ta cũng chẩn được bệnh của chính quả tim.

Khi trái tim mệt mỏi, nhịp đập của tim có thể nhanh hoặc chậm lại, hoạt động bơm của tim trở nên yếu đi, máu lưu thông qua tim cũng như khắp cơ thể với tốc độ chậm hơn và ứ đọng lại, dịch từ các mạch máu thoát ra ngoài, tích tụ lại ở phổi (chèn ép phổi gây ho, khó thở, thở hụt hơi khi gắng sức hoặc khi nằm); ở chi gây phù ở bàn chân, cẳng chân; toàn thân mệt mỏi. Dần dà nếu không có biện pháp chữa trị trái tim có thể bị suy.    

GS Phạm Gia Khải, nguyên Viện trưởng Viện Tim mạch Việt Nam, Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam cho biết, dấu hiệu hay gặp nhất ở người bị suy tim là khó thở. Lúc đầu chỉ khó thở khi hoạt động gắng sức, về sau khó thở xảy ra thường xuyên hơn kể cả lúc nghỉ ngơi, đặc biệt ở tư thế nằm nên người bệnh thường phải ngồi dậy để thở. Mệt mỏi, phù chi, tiểu đêm nhiều. Một triệu chứng khó thấy hơn và không được chú ý nhiều trong suy tim là ho không có đờm kéo dài, ho tăng khi nằm ngủ, người bệnh thấy hồi hộp và hay lo sợ.

Những người mắc cao huyết áp, rối loạn mỡ máu, rối loạn nhịp tim đều có nguy cơ suy tim, đây là bệnh được giới y học coi là chứng nan y. Bệnh nhân suy tim thường tử vong trong những đợt suy tim mất bù nhất là những bệnh nhân suy tim nặng. Ngoài ra, còn có những nguyên nhân khác trực tiếp dẫn đến tử vong là rối loạn nhịp tim, suy chức năng của các cơ quan không được tưới máu đầy đủ như gan và thận. Bệnh nhân suy tim do suy chức năng tâm thu và chức năng tâm trương có tiên lượng xấu hơn những bệnh nhân chỉ suy đơn thuần một trong hai chức năng đó.

Nguyên tắc phòng suy tim

Theo y học hiện đại, điều trị suy tim thường sử dụng các nhóm thuốc Digitalis, ức chế men chuyển, chẹn beta, lợi tiểu... tùy theo nguyên nhân có thể phẫu thuật. Bên cạnh sự cải thiện nhanh triệu chứng, các phương pháp này cũng có nhiều hạn chế trong việc sử dụng của các bệnh nhân gồm: Phần lớn phải được chỉ định và theo dõi chặt chẽ của các bác sĩ chuyên khoa, có nhiều phản ứng không mong muốn như gây ho (ức chế men chuyển), suy tim nặng hơn (chẹn beta liều cao), quá liều ngộ độc (digitalis), rất tốn kém và chứa đựng nhiều tai biến (phẫu thuật tim)… Nguyên tắc chung để giữ gìn sức khỏe và phòng bệnh là đảm bảo sinh hoạt điều độ, tránh được những tác nhân kích thích như rượu, bia, thuốc lá, tập thể thao đúng cách, thường xuyên… Đặc biệt ở phái nữ, hệ thống tim mạch dễ bị tổn thương hơn khi có tác động của các tác nhân độc hại, diễn biến bệnh thường phức tạp hơn và hiệu quả điều trị kém hơn so với nam giới thì vấn đề phòng bệnh, phát hiện và chữa trị kịp thời càng trở nên quan trọng.

Để phòng tránh suy tim cần kiểm soát chế độ ăn uống, kiêng rượu, bia, thuốc lá, ăn ít muối và mỡ động vật. Nên tạo thói quen tập thể dục từ khi còn trẻ, theo dõi cân nặng, kiểm tra huyết áp cơ thể hằng ngày (đối với phụ nữ và người cao tuổi), ngủ nghỉ điều độ, tránh mang vác nặng. Khi đã suy tim nên sử dụng thuốc theo sự chỉ dẫn của bác sĩ, không nên uống nhiều nước vì có thể tăng thêm gánh nặng cho tim, tránh stress, giảm lo âu căng thẳng.

Theo Đời sống
Thói quen xấu làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông

Thói quen xấu làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông

Cục máu đông, hay còn gọi là huyết khối, nếu xảy ra trong mạch máu của các cơ quan trong cơ thể, nó sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro sức khỏe nguy hiểm và đôi khi có thể đe dọa tính mạng nếu không được điều trị kịp thời.
back to top