Phòng tránh sỏi mật

(khoahocdoisong.vn) - Ở Việt Nam thường gặp là sỏi đường mật (chiếm 95%), hay gây viêm đường mật, nhưng gần đây sỏi túi mật có nguy cơ tăng lên do đời sống sinh hoạt ăn uống thay đổi, sỏi đường mật hay tái phát, có người phải mổ đi mổ lại hàng chục lần, ảnh hưởng đến sức khỏe và tiêu tốn kinh tế.

Triệu chứng phụ thuốc vào tính chất và kích thước sỏi

Sỏi mật bao gồm sỏi ở trong túi mật hoặc trong đường mật là một bệnh lý của hệ thống đường tiêu hóa do sự xuất hiện sỏi cholesterol hoặc sỏi sắc tố mật. 

Sỏi cholesterol do cholesterol kết tinh trong dịch mật, khi nồng độ cholesterol trong mật cao, nồng độ muối mật thấp, có sự ứ đọng dịch mật và một số nguyên nhân khác như do tuổi tác, ăn nhiều thức ăn có hàm lượng cholesterol cao, nhiều chất béo động vật, do sinh đẻ nhiều, biến chứng từ một số bệnh tiêu hoá như bệnh Crohn, cắt đoạn hồi tràng, do dùng một số dược phẩm clofibrate, estrogen... Sỏi cholesterol thường đơn độc, không cản tia X và có màu nhạt.

Sỏi sắc tố mật chủ yếu là canxi bilirubinate, có màu sậm, thường hình thành đám sỏi, cản tia X nhiều, hình thành khi bilirubine tăng hoặc nhiễm vi khuẩn, nhiễm ký sinh trùng đường mật. Nguyên nhân do tuổi tác, ăn thiếu chất béo và protein, ứ đọng dịch mật, xơ gan, bệnh tán huyết, thiếu máu Địa Trung Hải, thiếu máu hồng cầu liềm.

Sỏi mật.

Sỏi mật.

Triệu chứng lâm sàng của sỏi đường mật phụ thuộc vào kích thước sỏi, tính chất sỏi, vị trí sỏi và các triệu chứng kết hợp khác.

- Sỏi ở túi mật: Sỏi ở vị trí này thì thường không gây cơn đau quặn gan. Do rối loạn bài tiết mật nên cũng gián tiếp ảnh hưởng đến chức năng tiêu hóa của tuyến tụy nên bệnh nhân thấy xuất hiện cảm giác đầy tức vùng mạn sườn phải hoặc vùng thượng vị; hoặc thấy nóng rát thượng vị, ợ hơi, ợ chua. Nếu kèm theo viêm nhiễm thì có thể xuất hiện sốt, đau vùng hạ sườn phải, ấn điểm túi mật đau, có thể sờ thấy túi mật. Sỏi nhỏ trong túi mật kích thước 2 - 3mm dễ di chuyển xuống ống mật chủ gây biến chứng vàng da tắc mật,hoặc biến chứng nguy hiểm viêm tụy cấp có thể tử vong do viêm tụy hoại tử. Sỏi lớn 1 - 2cm gây biến chứng viêm túi mật cấp,có thể hoại tử túi mật.

- Sỏi ở ống cổ túi mật: Sỏi làm tắc ống túi mật nên gây cơn đau quặn gan, túi mật căng to. Trường hợp bị mạn tính thì túi mật thường giãn, bên trong chứa nhiều dịch lỏng. Nếu bị bội nhiễm thì gây viêm túi mật hoặc mủ túi mật.

- Sỏi ống mật chủ: Sỏi di chuyển trong ống mật chủ gây tắc mật. Lúc này, ngoài triệu chứng đau quặn gan ra còn thấy vàng da, viêm đường mật. Khi ứ mật ở ống mật chủ có thể gây viêm mủ đường mật, sốt cao, rét run, vàng da, bạch cầu trong máu tăng, huyết áp hạ, có thể rối loạn ngôn ngữ, hôn mê. Khi sỏi di chuyển vị trí hoặc xuống được hành tá tràng thì vàng da và sốt sẽ giảm. Sỏi khi bị kẹt ở cũng có thể gây viêm tụy cấp.

- Sỏi trong gan: Sỏi trong gan thường có màu vàng xanh hoặc dạng sỏi bùn. Trung tâm viên sỏi có thể tìm thấy xác trứng giun. Sỏi có thể thấy ở cả gan phải và gan trái, có thể thấy nhiều viên. Bệnh nhân có thể thấy các triệu chứng như sốt, vàng da, sợ lạnh từng đợt. Chức năng gan có thể bị tổn thương nhưng chức năng túi mật vẫn bình thường. Biến chứng của nó tương đối nguy hiểm như viêm mủ đường mật, áp xe gan, xuất huyết đường mật…

- Sỏi di chuyển ở đường mật: Sỏi từ túi mật di chuyển xuống ống túi mật hoặc ống mật chủ luôn gây cảm giác bứt rứt. Do cơ trơn của túi mật hoặc ống mật chủ giãn hay co thắt để tống sỏi nên có thể gây cơn đau quặn gan. Cơn đau quặn gan thường xảy ra sau khi ăn hoặc ăn nhiều chất béo hoặc bị chấn thương vùng bụng. Vị trí đau thường ở mạn sườn hoặc vùng bụng trên. Cơn đau thường dữ dội làm bệnh nhân đứng ngồi không yên, ra mồ hôi nhiều, sắc mặt trắng bệch, buồn nôn và nôn. Thời gian cơn đau ngắn, ít khi vượt quá vài giờ. Khi sỏi di chuyển lại về túi mật hoặc xuống tá tràng thì hết đau, có lúc do giãn cục bộ đường mật thì đau cũng giảm.

Nhịn ăn làm tăng nguy cơ sỏi mật

Để phòng ngừa bệnh, người bệnh không nên ăn bỏ bữa vì bỏ bữa hoặc nhịn ăn có thể làm tăng nguy cơ sỏi mật. Nên giảm cân từ từ nếu thừa cân, chỉ nên đặt mục tiêu giảm 0,5 - 1kg mỗi tuần. Nên ăn nhiều thực phẩm giàu chất xơ, hạn chế đồ ăn nhiều cholesterol như lòng đỏ trứng, tiết canh, nội tạng động vật… Định kỳ tẩy giun 6 tháng/lần.

Phẫu thuật cắt túi mật nội soi là lựa chọn vàng hàng đầu cho bệnh nhân sỏi túi mật có triệu chứng và biến chứng. Mở túi mật lấy sỏi bảo tồn túi mật hoặc lấy tán sỏi túi mật qua đường hầm xuyên gan qua da (khoảng 1 - 5%) cho những trường hợp bệnh nhân trẻ, túi mật chưa viêm, chức năng túi mật còn. Phẫu thuật mở ống mật chủ lấy sỏi dẫn lưu đơn thuần hoặc kèm tán sỏi nội soi trong mổ hạn chế sót sỏi. Bệnh nhân cũng có thể uống thuốc làm tan sỏi mật nhưng có thể mất nhiều tháng hoặc nhiều năm điều trị, nếu ngừng uống sỏi có thể sẽ hình thành trở lại.

BS Trần Kiên Quyết (Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn)

Theo Đời sống
back to top